Tác giả: Hồng Dương
01. DÒNG GIỐNG LẠC HỒNG
Bồng lai cảnh Đào Nguyên thơ mộng
Tiên Âu Cơ mơ mộng Việt Rồng
Giống nòi Nam Việt một tông
Kẻ xuôi người ngược mênh mông biển trời
Bàn tay ấy dựng đời cơ nghiệp
Khối óc này bước tiếp giữ gìn
Một lòng đoàn kết niềm tin
"Đồng bào" hai tiếng triệu nghìn thiêng liêng.
02. CÁC VUA HÙNG (2879-208 TCN)
Ôi tiếng gọi thiêng liêng vang vọng
Vua Hùng Vương nghiệp trọng sơn hà
Trống đồng giục chí ông cha
Lạc chim khơi động vị tha khởi lòng
Trao Thánh Gióng gương trong dũng cảm
Lang Liêu truyền đức cảm khoan hòa(L.Liêu vua Hùng VII . bánh chưng bánh dày)
Non sông gấm vóc một tòa
Mười tám đời ấy vẹn toàn khúc ca.
03. TRUYỆN CỔ LOA (208–179 TCN)
Khúc bi tráng ngân nga mây biếc
Thành Cổ Loa thương tiếc một thời
Thục Phán xây nghiệp để đời
Triệu Đà hiểm độc tơi bời Cổ Loa
Mỵ Châu hỡi ! tình oan thương tiếc
Trọng Thủy gian, tai điếc bạc tình
Để buồn Cao Lỗ chết kinh ( C.Lỗ vị tướng, kiến trúc sư thành Cổ Loa)
An Dương Vương thảm thất kinh bi hùng
04. THI SÁCH–TRƯNG VƯƠNG (?–43)
Đây Thi Sách đất hùng Chu Diễn (Chu Diên Sơn Tây)
Đất Mê Linh quyết tiến trận xa
Tô Định hà hiếp dân ta
Giết luôn Thi sách thành ma hồn đời
Hung tin đến sấm trời phẫn nộ
Phẫn chí quần phát tỏ hịch truyền
Lòng dân hiệu triệu đã tuyên
Rợp cờ Trưng Trắc khắp duyên trăm miền
05. Bà TRIỆU THỊ TRINH (225–248)
Đâu đấy vọng trăm miền nức tiếng
Triệu Thị Trinh nổi tiếng tuyệt trần
Đẹp, Khỏe lại được lòng dân
Cưỡi voi xung trận muôn phần oai phong
"Đạp sóng dữ suy vong tướng mạnh
Cưỡi gió to, chém sạch binh cường" (Đại ý câu nói của Triệu Thị Trinh)
Chém đầu mãnh hổ, không nương
Giáp mặt Vương Bà, xác thương hồn lìa
06. LÝ NAM ĐẾ (503–548)
Sáng ngời ngời gương kia thủ lĩnh
Đất Long Hưng Lý Bí khởi binh (Long Hưng, Thái Bình)
Lương tan, Nam Đế triều đình ( Giặc Lương)
Vạn Xuân khai quốc, hòa bình biên cương
Đô đã định triều Vương đất Việt
Đúc bạc nêu hào kiệt tự cường
Khẳng định độc lập biên cương
Vạn Xuân đất nước mãi trường công ơn.
07. TRIỆU QUANG PHỤC (–571)
Lúc sức yếu sa cơ nguy Quốc
Triệu Việt Vương giỏi cuộc thế thời (quê Chu Diên, SơnTây)
Về miền sông nước chờ thời
Đánh đòn tập kích, lo đời dân sinh
Dạ Trạch ấy địa hình sông nước
Đất Màn Trò tiếp bước phục binh(đầm Da Trạch, bãi Màn Trò, Hưng Yên)
Trường kỳ cầm cự mưu sinh
Chiến tranh du kích dụng binh bất ngờ.
08. MAI THÚC LOAN(? – 722)
Châu Hoan đó bất ngờ dấy nghĩa
Mai Thúc Loan trung nghĩa một thời(quê Mai Phụ,Thạch Hà, Hà Tĩnh)
Hiệu là Hắc Đế muôn nơi
Sức như lực sĩ võ trời phú cho
Trăm trận đánh ghi kho bia đá
Diệt sạch sanh ngàn tá quân Đường
Linh hồn lẫn khuất muôn phương
Vải thiều lệ cống, dứt đường sang ngang
09. PHÙNG HƯNG (760–802)
Đường Lâm hỡi , dọc ngang một cõi
Đất Hà Tây vẫy gọi Phùng Hưng
Quật trâu dùng sức lẫy lừng
Quân Đường rạp kiếp một rừng xác xơ
Giặc Đường ác xung cờ quyết liệt
Một đời thôi có biết bi thương
Hiển linh dân Việt quật cường
Xứng đời Bố Cái Đại Vương anh hùng.
10. HỌ KHÚC GIÀNH ĐỘC LẬP (905–930)
Đây họ Khúc lẫy lừng tiếp bước
Khôi phục quyền bao ước mơ xưa
Hoài mong độc lập đẩy đưa
Nhà Đường suy yếu quyết chừa Bắc Phương
Ngoại giao tốt rộng đường ứng xử
Yêu hòa bình, hùng cứ một phương
Xóa tan đô hộ xót thương
Hai lăm năm ấy sử vương công đầu.
11. DƯƠNG ĐÌNH NGHỆ (?–937)
Đất Thanh Hóa xin tâu Đình Nghệ
Võ nghệ cao lòng nệ nhân tài
Ngô Quyền , Công Trứ kề vai
Quân Nam Hán kiếp mặt phai mắt mờ
Giặc Lý Tiến không ngờ sức mạnh
Lão Khắc Trinh bỏ mạng quân tàn
Viện binh Trần Bảo nát tan
Không còn mảnh giáp mê man la trời.
12. NGÔ QUYỀN (897–944)
Đường Lâm hỡi một thời linh ứng( Đường Lâm, Sơn Tây, Hà Nội)
Đấng Ngô Quyền vụt đứng oai phong
Bạch Đằng sóng nộ cuồng phong
Đánh tan Nam Hán mênh mông vương triều
Đau thương quá một điều lưu luyến
An nam buồn xao xuyến ngôi vương
Ngô Quyền đoạn mệnh đau thương
Loạn ly chia sẻ tơ vương đôi đường
13. ĐINH TIÊN HOÀNG ĐẾ(968-979)(quê: Gia Phương, Gia Viễn, Ninh Bình)
Mười hai sứ loạn đường đất Việt
Vạn Thắng Vương quyết diệt trừ ngay
Cờ lau phất phới bay bay
Lê Hoàn, Khuông Việt ra tay một lòng
Đại Cồ Việt hằng mong vụt sáng
Tướng Nguyễn Bặc, xứng đáng trung kiên
Lưu Cơ, Phạm Hạp, Đinh Điền
Xứng danh anh dũng sử biên sách vàng
14. Thái hậu DƯƠNG VÂN NGA
Đẹp biết mấy đài trang dáng ngọc
Dương Vân Nga quỷ khóc thần sầu
Danh thơm Dương Hậu tâm sâu
Tài hoa, sắc đẹp như khâu hồn người
Nhiếp chính vững xinh tươi đức tỏa
Nhường ngôi cao tóc xõa vai gầy
Hy sinh cứu nước non này
Sử xanh ghi tạc đến nay chẳng mòn
15. LÊ ĐẠI HÀNH (941-1005)
Đinh Bộ Lĩnh rời non nước Việt
Tướng Lê Hoàn lại viết sử xanh
Cầm quân mưu lược tinh anh
Bạch Đằng lại nổi sóng ngăn giặc thù
Chi Lăng cháy đốt thui quân địch
Đấng anh minh cầm chịch đất này
An dân quốc thái mộng say
Đẹp lòng xã tắc lòng say hồn lòng
16. LÝ THÁI TỔ (1010-1028)
Thần Long báo mộng trong đất ngọc
Đế vương về xây nóc lầu xinh
Phật chùa hiện hữu tâm linh
Mõ chùa tĩnh trí quang vinh muôn đời
Lý Công Uẫn chiếu dời đô sớm
Đến Thăng Long cho sớm sang trang
Sơn hà Xã tắc vinh quang
Đẹp lòng dân Việt vẽ vang sử vàng
17. LÝ THƯỜNG KIỆT (1019–1105)
Quân Nam Tống đòi sang đất Việt
Đất anh hùng hào kiệt lòng trung
Thăng Long Thường Kiệt anh hùng
Đánh tan quân giặc Quảng Tây san bằng
Quân Nam Tống hung hăng hống hách
Dân nước Nam Khí phách một phương
Đánh cho chúng biết tỏ tường
Ung châu khói lửa hồn bay theo hồn
Tuyên ngôn Việt hùng hồn tuyên bố:
"Nước Nam này là của Việt Nam
Non sông nước Việt rõ ràng
Các ngươi phương Bắc nếu tham xác tàn"
18. Thái úy TÔ HIẾN THÀNH(?–1179)
Đây văn võ, song toàn đức nặng
Thái úy Tô, quả rạng anh tài !
Non sông gánh vác hai vai
Phò giúp Thái tử xuôi hai mái chèo
Đà ngang mái, dòng theo khôn thấm
Trụ đá đời, mưa giẫm khó phai
Chu Công, Y Doãn kinh thay
Trung thần thuở ấy ai hay được lòng ?
19. Nguyên phi Ỷ LAN(?–1179)
Ỷ Lan hỡi ! Sáng trong gương nước
Nặng hai vai sánh bước giang san ?
Vương hậu đời chọn tựa “vàng”
Đẹp như tiên nữ đoan trang đời thường
Tài năng lắm vô thường đạo lý
Nhiếp chính vương lòng ỷ muôn dân,
Uy-tài-sắc-đức muôn cân
Ngàn dâu còn vẳng tần ngần hò khoan...(Còn tiếp phần II)
Bồng lai cảnh Đào Nguyên thơ mộng
Tiên Âu Cơ mơ mộng Việt Rồng
Giống nòi Nam Việt một tông
Kẻ xuôi người ngược mênh mông biển trời
Bàn tay ấy dựng đời cơ nghiệp
Khối óc này bước tiếp giữ gìn
Một lòng đoàn kết niềm tin
"Đồng bào" hai tiếng triệu nghìn thiêng liêng.
02. CÁC VUA HÙNG (2879-208 TCN)
Ôi tiếng gọi thiêng liêng vang vọng
Vua Hùng Vương nghiệp trọng sơn hà
Trống đồng giục chí ông cha
Lạc chim khơi động vị tha khởi lòng
Trao Thánh Gióng gương trong dũng cảm
Lang Liêu truyền đức cảm khoan hòa(L.Liêu vua Hùng VII . bánh chưng bánh dày)
Non sông gấm vóc một tòa
Mười tám đời ấy vẹn toàn khúc ca.
03. TRUYỆN CỔ LOA (208–179 TCN)
Khúc bi tráng ngân nga mây biếc
Thành Cổ Loa thương tiếc một thời
Thục Phán xây nghiệp để đời
Triệu Đà hiểm độc tơi bời Cổ Loa
Mỵ Châu hỡi ! tình oan thương tiếc
Trọng Thủy gian, tai điếc bạc tình
Để buồn Cao Lỗ chết kinh ( C.Lỗ vị tướng, kiến trúc sư thành Cổ Loa)
An Dương Vương thảm thất kinh bi hùng
04. THI SÁCH–TRƯNG VƯƠNG (?–43)
Đây Thi Sách đất hùng Chu Diễn (Chu Diên Sơn Tây)
Đất Mê Linh quyết tiến trận xa
Tô Định hà hiếp dân ta
Giết luôn Thi sách thành ma hồn đời
Hung tin đến sấm trời phẫn nộ
Phẫn chí quần phát tỏ hịch truyền
Lòng dân hiệu triệu đã tuyên
Rợp cờ Trưng Trắc khắp duyên trăm miền
05. Bà TRIỆU THỊ TRINH (225–248)
Đâu đấy vọng trăm miền nức tiếng
Triệu Thị Trinh nổi tiếng tuyệt trần
Đẹp, Khỏe lại được lòng dân
Cưỡi voi xung trận muôn phần oai phong
"Đạp sóng dữ suy vong tướng mạnh
Cưỡi gió to, chém sạch binh cường" (Đại ý câu nói của Triệu Thị Trinh)
Chém đầu mãnh hổ, không nương
Giáp mặt Vương Bà, xác thương hồn lìa
06. LÝ NAM ĐẾ (503–548)
Sáng ngời ngời gương kia thủ lĩnh
Đất Long Hưng Lý Bí khởi binh (Long Hưng, Thái Bình)
Lương tan, Nam Đế triều đình ( Giặc Lương)
Vạn Xuân khai quốc, hòa bình biên cương
Đô đã định triều Vương đất Việt
Đúc bạc nêu hào kiệt tự cường
Khẳng định độc lập biên cương
Vạn Xuân đất nước mãi trường công ơn.
07. TRIỆU QUANG PHỤC (–571)
Lúc sức yếu sa cơ nguy Quốc
Triệu Việt Vương giỏi cuộc thế thời (quê Chu Diên, SơnTây)
Về miền sông nước chờ thời
Đánh đòn tập kích, lo đời dân sinh
Dạ Trạch ấy địa hình sông nước
Đất Màn Trò tiếp bước phục binh(đầm Da Trạch, bãi Màn Trò, Hưng Yên)
Trường kỳ cầm cự mưu sinh
Chiến tranh du kích dụng binh bất ngờ.
08. MAI THÚC LOAN(? – 722)
Châu Hoan đó bất ngờ dấy nghĩa
Mai Thúc Loan trung nghĩa một thời(quê Mai Phụ,Thạch Hà, Hà Tĩnh)
Hiệu là Hắc Đế muôn nơi
Sức như lực sĩ võ trời phú cho
Trăm trận đánh ghi kho bia đá
Diệt sạch sanh ngàn tá quân Đường
Linh hồn lẫn khuất muôn phương
Vải thiều lệ cống, dứt đường sang ngang
09. PHÙNG HƯNG (760–802)
Đường Lâm hỡi , dọc ngang một cõi
Đất Hà Tây vẫy gọi Phùng Hưng
Quật trâu dùng sức lẫy lừng
Quân Đường rạp kiếp một rừng xác xơ
Giặc Đường ác xung cờ quyết liệt
Một đời thôi có biết bi thương
Hiển linh dân Việt quật cường
Xứng đời Bố Cái Đại Vương anh hùng.
10. HỌ KHÚC GIÀNH ĐỘC LẬP (905–930)
Đây họ Khúc lẫy lừng tiếp bước
Khôi phục quyền bao ước mơ xưa
Hoài mong độc lập đẩy đưa
Nhà Đường suy yếu quyết chừa Bắc Phương
Ngoại giao tốt rộng đường ứng xử
Yêu hòa bình, hùng cứ một phương
Xóa tan đô hộ xót thương
Hai lăm năm ấy sử vương công đầu.
11. DƯƠNG ĐÌNH NGHỆ (?–937)
Đất Thanh Hóa xin tâu Đình Nghệ
Võ nghệ cao lòng nệ nhân tài
Ngô Quyền , Công Trứ kề vai
Quân Nam Hán kiếp mặt phai mắt mờ
Giặc Lý Tiến không ngờ sức mạnh
Lão Khắc Trinh bỏ mạng quân tàn
Viện binh Trần Bảo nát tan
Không còn mảnh giáp mê man la trời.
12. NGÔ QUYỀN (897–944)
Đường Lâm hỡi một thời linh ứng( Đường Lâm, Sơn Tây, Hà Nội)
Đấng Ngô Quyền vụt đứng oai phong
Bạch Đằng sóng nộ cuồng phong
Đánh tan Nam Hán mênh mông vương triều
Đau thương quá một điều lưu luyến
An nam buồn xao xuyến ngôi vương
Ngô Quyền đoạn mệnh đau thương
Loạn ly chia sẻ tơ vương đôi đường
13. ĐINH TIÊN HOÀNG ĐẾ(968-979)(quê: Gia Phương, Gia Viễn, Ninh Bình)
Mười hai sứ loạn đường đất Việt
Vạn Thắng Vương quyết diệt trừ ngay
Cờ lau phất phới bay bay
Lê Hoàn, Khuông Việt ra tay một lòng
Đại Cồ Việt hằng mong vụt sáng
Tướng Nguyễn Bặc, xứng đáng trung kiên
Lưu Cơ, Phạm Hạp, Đinh Điền
Xứng danh anh dũng sử biên sách vàng
14. Thái hậu DƯƠNG VÂN NGA
Đẹp biết mấy đài trang dáng ngọc
Dương Vân Nga quỷ khóc thần sầu
Danh thơm Dương Hậu tâm sâu
Tài hoa, sắc đẹp như khâu hồn người
Nhiếp chính vững xinh tươi đức tỏa
Nhường ngôi cao tóc xõa vai gầy
Hy sinh cứu nước non này
Sử xanh ghi tạc đến nay chẳng mòn
15. LÊ ĐẠI HÀNH (941-1005)
Đinh Bộ Lĩnh rời non nước Việt
Tướng Lê Hoàn lại viết sử xanh
Cầm quân mưu lược tinh anh
Bạch Đằng lại nổi sóng ngăn giặc thù
Chi Lăng cháy đốt thui quân địch
Đấng anh minh cầm chịch đất này
An dân quốc thái mộng say
Đẹp lòng xã tắc lòng say hồn lòng
16. LÝ THÁI TỔ (1010-1028)
Thần Long báo mộng trong đất ngọc
Đế vương về xây nóc lầu xinh
Phật chùa hiện hữu tâm linh
Mõ chùa tĩnh trí quang vinh muôn đời
Lý Công Uẫn chiếu dời đô sớm
Đến Thăng Long cho sớm sang trang
Sơn hà Xã tắc vinh quang
Đẹp lòng dân Việt vẽ vang sử vàng
17. LÝ THƯỜNG KIỆT (1019–1105)
Quân Nam Tống đòi sang đất Việt
Đất anh hùng hào kiệt lòng trung
Thăng Long Thường Kiệt anh hùng
Đánh tan quân giặc Quảng Tây san bằng
Quân Nam Tống hung hăng hống hách
Dân nước Nam Khí phách một phương
Đánh cho chúng biết tỏ tường
Ung châu khói lửa hồn bay theo hồn
Tuyên ngôn Việt hùng hồn tuyên bố:
"Nước Nam này là của Việt Nam
Non sông nước Việt rõ ràng
Các ngươi phương Bắc nếu tham xác tàn"
18. Thái úy TÔ HIẾN THÀNH(?–1179)
Đây văn võ, song toàn đức nặng
Thái úy Tô, quả rạng anh tài !
Non sông gánh vác hai vai
Phò giúp Thái tử xuôi hai mái chèo
Đà ngang mái, dòng theo khôn thấm
Trụ đá đời, mưa giẫm khó phai
Chu Công, Y Doãn kinh thay
Trung thần thuở ấy ai hay được lòng ?
19. Nguyên phi Ỷ LAN(?–1179)
Ỷ Lan hỡi ! Sáng trong gương nước
Nặng hai vai sánh bước giang san ?
Vương hậu đời chọn tựa “vàng”
Đẹp như tiên nữ đoan trang đời thường
Tài năng lắm vô thường đạo lý
Nhiếp chính vương lòng ỷ muôn dân,
Uy-tài-sắc-đức muôn cân
Ngàn dâu còn vẳng tần ngần hò khoan...(Còn tiếp phần II)