Tác giả: Lê Huy Trứ
Văn Tế Chiêu Hồn
(Phóng tác, phổ theo bài “Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh” của Nguyễn Du, Thể thơ: Song thất lục bát)
Năm bảy lăm căm hờn tủi nhục
Nghiến răng thề bảo quốc cứu dân
Não lòng thế cuộc đổi thay
Ngàn đời quốc hận nổi buồn lưu vong
Lính Cộng Hòa bố quân dàn trận
Đem thân tàn chận Cộng tiến quân
Đạn bay bom pháo đùng đùng
Phân thây trăm họ nên công giặc thù.
Bỗng phút chốc nhà tan nước lở
Khổn cho người làm kẻ sa cơ
Mất nhà mất nước mất thân
Máu rơi lai láng cốt xương gãy lìa
Trong tuyệt vọng súng rơi đạn lạc
Nơi sa trường thân nát máu rơi
Bơ vơ góc biển chân đồi
Nắm xương vô chủ vội vùi nơi đâu?
Ngày di tản chiều buồn man mác
Đại lộ kinh hoàng lệ đổ máu rơi
Trời nào trời chẳng xót thương
Cõi trần khổ thế huống là cõi âm
Quân di tản lạc lòi đói khát
Đám dân lành sợ hãi khóc than
Pháo thù truy kích dã man
Ngàn cô hồn chết hận này không tan
Đường trường xa mịt mù khói lửa
Đau lòng thay tất cả chúng sinh
Hồn thiên sông núi chứng minh
Hồn đơn bóng quế lênh đênh xứ người
Không nhan đèn không hơi nương tựa
Hồn cô đơn vất vưởng đêm đen
Còn chi ai nhục ai vinh
Đâu còn kẻ dại người khôn đứa hèn
Hởi những kẻ mắc vào nghiệp lính
Xếp bút nghiên theo việc kiếm cung
Nước bùn gạo sấy gian nan
Màn trời chiếu đất lầm than một đời
Nơi chiến trận mạng như cỏ rác
Phận đã đành chấp nhận thương đau
Suốt năm gối đất hầm cầu
Ở trong thế khuất vận cùng hận căm
Cũng có kẻ anh hùng kiêu hãnh
Cố gắng gồng gánh nợ núi sông
Sá chi những trận tử sinh
Xuôi Nam Nam tịnh lên đoài đoài tan
Cũng có kẻ anh hùng hào kiệt
Chí tan bồng ngang dọc ngược xuôi
Một phen xoay chuyển cơ trời
Người đâu nón đó hồn về nơi đâu?
Còn trên đời hay vẫn bôn ba?
Trời biển đầm bùn ruộng núi sâu?
Hay nơi Bến Hải Cà Mâu?
Hay đã tử trận khí hùng chưa tan?
Đau khổ thay không ai nhan khói
Hồn bơ vơ khe suối rừng xanh
Thương thay chân cứng đá mềm
Vô minh không biết tìm đường siêu sinh
Hàng ngàn mồ mã nấm vô danh
Nghĩa trang hiu quạnh thê lương buồn
Thuở nào oanh liệt dọc ngang
Không gian sông biển hào hùng còn đâu.
Người thân thích đứa xa kẻ mất
Biết còn ai chén rượu hàn huyên?
Lưu vong tỵ nạn bốn phương
Ngày xưa lận đận bây giờ long đong
Trời thăm thẳm hồn gào ma thét
Khói âm tuyền mù mịt bốn phương
Ngàn năm sông núi thảm sầu
Biết đâu điếu táng, nơi đâu cúng dường
Hởi tử sĩ thủy chiến đảo khơi
Không gian gãy cánh đại bàng vong
Nơi chiến trận mấy kẻ về
Hồn xiêu phách tán biết bờ bến đâu?
Hồn trốn nơi bờ ngang bụi dọc
Hay nương nhờ khe suối chân mây
Núp nơi bụi cỏ bóng cây
Ẩn nơi đồi đó rừng này cô đơn
Hay là nơi nhà thờ, Phật tự
Hoặc là nơi xó chợ đầu đường
Hay là trốn tại đồng lầy
Hồn nơi gò đống hay đầm sậy tre
Sống đã gian nan trong “cố gắng”
Chết héo mòn da rét căm xương
Dải dầu ngang dọc bao năm
Trên trời dưới đất chết chìm biển sâu
Đài tưởng niệm lữa thiêng lấp lánh
Kính dâng hồn bát cháo nén nhang
Gọi là tổ quốc tri ơn
Về đây huynh đệ hàn huyên ngày nào
Hồn về đây vào hàng tập họp
Vai kề vai huynh đệ chi binh
Sống vì dân tử vi thần
Nước non chứng dám lời thề sắc son
Sư tử hống uy linh dũng mãnh
Hồn si mê vội tỉnh cơn mơ
Hồn về cùng vợ với con
Hồn về say với anh em bạn bè
Lúc bình minh tìm nơi lẫn tránh
Chờ hoàng hôn lẩn thẩn chui ra
Lênh đênh bế trẻ dắt già
Sống khôn thiêng tử hãy về nghe kinh
Quy y pháp siêu sinh tịnh độ
Nước Cam Lồ cứu khổ độ đau
Quang Âm tứ hải cứu nguy
Khổ đau diệt tận oán thù thứ tha
Nam mô Phật thần thông quảng đại
Chuyển pháp luân tam giới chúng sinh
Hồn nầy vị quốc hy sinh
Linh kỳ phất phới cho hồn nương theo
Kiếp nhân sinh phù du bào ảnh
Bát Nhã kinh ngũ uẩn giai không
Hồn linh thấy Phật tại tâm
Tức thời giác ngộ luân hồi siêu sinh
Tiết vào Thu lập đàn siêu thoát
Đời vô thường sống gởi thác đi
Quyết lòng tam bảo quy y
Nam mô tiếp dẫn đạo sư Phật đà
Phật từ bi nhủ lòng phổ độ
Quan Thế Âm cứu nạn khổ đau
Nguyện quy y Phật Pháp Tăng
Tiếp dẫn cứu độ hồn về Tây Phương
(Phóng tác, phổ theo bài “Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh” của Nguyễn Du, Thể thơ: Song thất lục bát)
Năm bảy lăm căm hờn tủi nhục
Nghiến răng thề bảo quốc cứu dân
Não lòng thế cuộc đổi thay
Ngàn đời quốc hận nổi buồn lưu vong
Lính Cộng Hòa bố quân dàn trận
Đem thân tàn chận Cộng tiến quân
Đạn bay bom pháo đùng đùng
Phân thây trăm họ nên công giặc thù.
Bỗng phút chốc nhà tan nước lở
Khổn cho người làm kẻ sa cơ
Mất nhà mất nước mất thân
Máu rơi lai láng cốt xương gãy lìa
Trong tuyệt vọng súng rơi đạn lạc
Nơi sa trường thân nát máu rơi
Bơ vơ góc biển chân đồi
Nắm xương vô chủ vội vùi nơi đâu?
Ngày di tản chiều buồn man mác
Đại lộ kinh hoàng lệ đổ máu rơi
Trời nào trời chẳng xót thương
Cõi trần khổ thế huống là cõi âm
Quân di tản lạc lòi đói khát
Đám dân lành sợ hãi khóc than
Pháo thù truy kích dã man
Ngàn cô hồn chết hận này không tan
Đường trường xa mịt mù khói lửa
Đau lòng thay tất cả chúng sinh
Hồn thiên sông núi chứng minh
Hồn đơn bóng quế lênh đênh xứ người
Không nhan đèn không hơi nương tựa
Hồn cô đơn vất vưởng đêm đen
Còn chi ai nhục ai vinh
Đâu còn kẻ dại người khôn đứa hèn
Hởi những kẻ mắc vào nghiệp lính
Xếp bút nghiên theo việc kiếm cung
Nước bùn gạo sấy gian nan
Màn trời chiếu đất lầm than một đời
Nơi chiến trận mạng như cỏ rác
Phận đã đành chấp nhận thương đau
Suốt năm gối đất hầm cầu
Ở trong thế khuất vận cùng hận căm
Cũng có kẻ anh hùng kiêu hãnh
Cố gắng gồng gánh nợ núi sông
Sá chi những trận tử sinh
Xuôi Nam Nam tịnh lên đoài đoài tan
Cũng có kẻ anh hùng hào kiệt
Chí tan bồng ngang dọc ngược xuôi
Một phen xoay chuyển cơ trời
Người đâu nón đó hồn về nơi đâu?
Còn trên đời hay vẫn bôn ba?
Trời biển đầm bùn ruộng núi sâu?
Hay nơi Bến Hải Cà Mâu?
Hay đã tử trận khí hùng chưa tan?
Đau khổ thay không ai nhan khói
Hồn bơ vơ khe suối rừng xanh
Thương thay chân cứng đá mềm
Vô minh không biết tìm đường siêu sinh
Hàng ngàn mồ mã nấm vô danh
Nghĩa trang hiu quạnh thê lương buồn
Thuở nào oanh liệt dọc ngang
Không gian sông biển hào hùng còn đâu.
Người thân thích đứa xa kẻ mất
Biết còn ai chén rượu hàn huyên?
Lưu vong tỵ nạn bốn phương
Ngày xưa lận đận bây giờ long đong
Trời thăm thẳm hồn gào ma thét
Khói âm tuyền mù mịt bốn phương
Ngàn năm sông núi thảm sầu
Biết đâu điếu táng, nơi đâu cúng dường
Hởi tử sĩ thủy chiến đảo khơi
Không gian gãy cánh đại bàng vong
Nơi chiến trận mấy kẻ về
Hồn xiêu phách tán biết bờ bến đâu?
Hồn trốn nơi bờ ngang bụi dọc
Hay nương nhờ khe suối chân mây
Núp nơi bụi cỏ bóng cây
Ẩn nơi đồi đó rừng này cô đơn
Hay là nơi nhà thờ, Phật tự
Hoặc là nơi xó chợ đầu đường
Hay là trốn tại đồng lầy
Hồn nơi gò đống hay đầm sậy tre
Sống đã gian nan trong “cố gắng”
Chết héo mòn da rét căm xương
Dải dầu ngang dọc bao năm
Trên trời dưới đất chết chìm biển sâu
Đài tưởng niệm lữa thiêng lấp lánh
Kính dâng hồn bát cháo nén nhang
Gọi là tổ quốc tri ơn
Về đây huynh đệ hàn huyên ngày nào
Hồn về đây vào hàng tập họp
Vai kề vai huynh đệ chi binh
Sống vì dân tử vi thần
Nước non chứng dám lời thề sắc son
Sư tử hống uy linh dũng mãnh
Hồn si mê vội tỉnh cơn mơ
Hồn về cùng vợ với con
Hồn về say với anh em bạn bè
Lúc bình minh tìm nơi lẫn tránh
Chờ hoàng hôn lẩn thẩn chui ra
Lênh đênh bế trẻ dắt già
Sống khôn thiêng tử hãy về nghe kinh
Quy y pháp siêu sinh tịnh độ
Nước Cam Lồ cứu khổ độ đau
Quang Âm tứ hải cứu nguy
Khổ đau diệt tận oán thù thứ tha
Nam mô Phật thần thông quảng đại
Chuyển pháp luân tam giới chúng sinh
Hồn nầy vị quốc hy sinh
Linh kỳ phất phới cho hồn nương theo
Kiếp nhân sinh phù du bào ảnh
Bát Nhã kinh ngũ uẩn giai không
Hồn linh thấy Phật tại tâm
Tức thời giác ngộ luân hồi siêu sinh
Tiết vào Thu lập đàn siêu thoát
Đời vô thường sống gởi thác đi
Quyết lòng tam bảo quy y
Nam mô tiếp dẫn đạo sư Phật đà
Phật từ bi nhủ lòng phổ độ
Quan Thế Âm cứu nạn khổ đau
Nguyện quy y Phật Pháp Tăng
Tiếp dẫn cứu độ hồn về Tây Phương