Tác giả: Nguyễn Gia Linh
Ngọc trung khám lạnh
Một tiếng sét ! long trời lở đất
Một hung tin, tím mật bầm gan
Hãn ơi ! Nơi chốn suối vàng
Em đi, anh ở đôi hàng lệ đau
*
Anh tức tối nghẹn ngào câm nín
Không biết mình đang tỉnh hay say
Nói lên lời thật thẳng ngay
Hay đành ôm chặt đắng cay trong lòng
*
Vua không phải mình không dám nói
Vua giết người vô tội có công
Mình không dám tỏ nỗi lòng
Nói chi chỉ trích, rước vòng tai ương
*
Tình bằng hữu như vương như vấn
Nghĩa vua tôi muốn nấn muốn lui
Ngày xưa chia đắng xẻ bùi
Ngày nay chỉ nghĩ đến mùi đỉnh chung
*
Giữa mưa gió bão bùng trong trí
Bổng bên ngoài Quốc Khí hét vang
Chúng bây đi trước dẫn đàng
(160) Để ta vào bắt tôi loàn phản vong ! ! !
*
Trãi ngơ ngẩn như trong cơn mộng
Trí óc còn xúc động mênh mông
Đất trời như một khoảng không
Không tình, không lý, không vòng nghĩa ân
*
Trãi nén giận, nghiêm trang khẽ hỏi
Lê Phó sư, tôi tội tình chi ?(11)
Đến giờ chưa biết tội mi
Thông đồng với giặc biên thùy nhiễu nhương
*
Mi cùng Hãn chung đường với Thiệu
Hưởng hoàng ân chẳng chịu ngồi yên
Lại gây rối rắm lụy phiền
Cho dân cho nước triền miên khổ sầu!
*
Không chịu nổi những câu ngụy biện
Trãi yêu cầu diện kiến Thánh hoàng
Khí rằng : Tội trạng rõ ràng
Này đây chiếu chỉ kêu than nỗi gì
*
Trước bạo lực còn chi để nói
Trước độc tài, ai giỏi biện phân ?
Chỉ thương chút phận tôi thần
(180) Hết lòng vì nước, vì dân, vì nhà
*
Nguyễn Thị Lộ xót xa trong dạ
Thương chồng yêu tuổi đã năm mươi (12)
Xông pha mấy chục năm trời
Giờ chưa thấy được cuộc đời an vui
*
Giữa đau xót, ngậm ngùi số phận
Và bôn ba lo lắng cho chồng
Không gì cản trở được lòng
Kiếm người giúp đở bên trong bên ngoài
*
Bao bè bạn đêm ngày thăm hỏi
Cố wắng tìm nguồn cội nguyên do
Xem ai là chủ chuyến đò
Chở chuyên kẻ nịnh mà so tôi hiền
*
Nay đã rõ căn nguyên cội rễ
Họp cùng nhau tìm kế phân bày
Bạn bè còn lại mấy ai
Quyết nhờ Đinh Liệt, tỏ bày biện minh (13)
*
Phía bên ngoài sự tình đã sáng
Lộ hết lòng cáng đáng bên trong
Làm sao gặp được mặt chồng
(200) Co ro, cá chậu chim lồng tối tăm
*
Nàng tìm đến Huy Chân công chúa (14)
Một giai nhân hương lửa nhà Trần
Tự mình nguyện đáp 诃?ng ân
Chỉ mong cùng được góp phần đắp xây
*
Không thể ngược đường dây lịch sử
Nước non giờ đổi chủ thay ngôi
Nhà Trần đã mất cơ trời
Thì đem tài sức giúp đời nhà Lê
*
Trước ổn định lời thề thống nhứt
Rằng vua Trần chấm dứt tranh quyền
Từ nay một bến một thuyền
Ai người chèo chống đến miền vinh quang ?
*
Vốn mến chuộng tài ngang Phạm Lãi (15)
Trí mưu thần đâu hãi Trương Lương (16)
Nghe lời Thị Lộ phân tường
Huy Chân tìm đến khám đường thăm ông
*
Giữa cay đắng chất chồng tâm não
Bốn bức tường mờ ảo hôi tanh
Nghĩ sao cho hết lòng mình
(220) Nói sao cho hết ý tình đục trong
*
Không mảnh gìấy, bút cùn chẳng có
Biết làm sao bày tỏ nỗi lòng
Làm sao đến tận đền rồng
Để vua phân biệt màu hồng màu đen
*
Bao câu hỏi rối ren trong trí
Bao niềm tin vốn dĩ lung lay
Trọn lòng trung nghĩa không phai
Hay mau tìm chốn non Đoài lánh thân
*
Trong lối sống số phần đã chọn
Một con đường trước đón sau đưa
Nước non lo mấy cho vừa
Mà sao tâm trí vẫn chưa yên lòng
*
Đang lo lắng giữa trông giữa đợi
Bỗng chợt nghe tiếng gọi thanh tao
Dư hương, âm hưởng ngọt ngào
Phát ra từ... một kiếp nào về đây
*
Nguyễn Thừa chỉ, hỏi Ngài thức ngủ ?
Tôi đến thăm, nhắn nhủ vài câu
Biết trong khám lạnh u sầu
(240) Nhớ thương làm bạc mái đầu trung cang
*
Tôi đã hiểu rõ ràng chi tiết
Nhờ vợ ông khúc chiết tỏ bày
Này đây mấy vật cầm tay
Sâm dùng giữ sức, giấy mài mực thoi
*
Trong khám lạnh theo ngòi nét bút
Sớ khiếu oan un đúc nỗi lòng
Bên ngoài xin xét đục trong
Thánh hoàng mở lượng khoan hồng thứ tha
*
Ngài cứ thảo, đôi ba ngày nữa
Tôi trở vào, đứng tựa hiên tây
Nhận xong sớ khiếu oan nầy
Sẽ trình Thánh thượng xét dầy công lao
*
Trước nghĩa cữ, nghẹn ngào xúc động
Cúi xin người chuyển vọng bài thơ
Chứa chan tâm sự mong chờ
Của người đã đến bến bờ nghĩ suy
*
Năm mươi tuổi, đường đi một lối (17)
Sao cuộc đời chìm nổi lắm phen
Danh hư trắng, họa thực đen
(260) Thương yêu vì nước, ghét ghen vì tài
*
Do số kiếp không ai tránh khỏi
Bởi lòng trời chưa nới tơ vương
Cố đem tâm sự trung lương
Ghi vào trang giấy phân tường đục trong
Nguyễn Gia Linh
(11) Lê Quốc Khí là cháu kêu Lê Lợi bằng chú, giữ chức Phó sứ Mật vụ viện, là kẻ chủ mưu để hãm hại Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Trãi và Phạm Văn Xão sau nầy
(12) Lê Lợi vừa lên ngôi vua được một năm, đến năm Kỷ Dậu (1429) đã ra lệnh giết Trần Nguyên Hãn và bắt nhốt Nguyễn Trãi. Lúc ấy Nguyễn Trãi vừa được 50 tuổi (âm lịch)
(13) Đinh Liệt, cháu gọi Lê Lợi bằng cậu, là một quan võ có tài lại cũng giỏi về văn (thường làm thơ bằng cách nói lái), rất mến phục tài trí và sự trung thành của Nguyễn Trãi
(14) Huy Chân công chúa là con của vua Trần cuối cùng, đã tự nguyện xin làm phi của vua Lê Lợi, khi nghĩa quân vừa tiến đến Nghệ An
(15) Phạm Lãi, mưu thần của vua Câu Tiễn, đã giúp vua phục hồi nước Việt. Sau khi thành công đã từ quan, xin về quê an hưởng tuổi già
(16) Trương Lương, quân sư của Lưu Bang, đã giúp ông nầy đánh bại Hạng Võ để lập nhà Hán, cũng từ quan về hưu sau khi thành công.
(17) Theo Vằng Vặc Sao Khuê của Hoàng công Khanh, Nguyễn Trãi đã gởi bài Than Oán như sau :
Chìm nổi cuộc đời năm chục năm
Non quê suối đá phụ tình thâm
Đáng cười họa thực mà danh hảo
Quá xót trung côi lắm kẻ căm
Tại mệnh làm sao mà tránh khỏi
Do trời chưa nở bỏ tư văn
Trong lao oan nhục ghi lưng giấy
Chín bệ nhờ ai đệ tố trần
Một tiếng sét ! long trời lở đất
Một hung tin, tím mật bầm gan
Hãn ơi ! Nơi chốn suối vàng
Em đi, anh ở đôi hàng lệ đau
*
Anh tức tối nghẹn ngào câm nín
Không biết mình đang tỉnh hay say
Nói lên lời thật thẳng ngay
Hay đành ôm chặt đắng cay trong lòng
*
Vua không phải mình không dám nói
Vua giết người vô tội có công
Mình không dám tỏ nỗi lòng
Nói chi chỉ trích, rước vòng tai ương
*
Tình bằng hữu như vương như vấn
Nghĩa vua tôi muốn nấn muốn lui
Ngày xưa chia đắng xẻ bùi
Ngày nay chỉ nghĩ đến mùi đỉnh chung
*
Giữa mưa gió bão bùng trong trí
Bổng bên ngoài Quốc Khí hét vang
Chúng bây đi trước dẫn đàng
(160) Để ta vào bắt tôi loàn phản vong ! ! !
*
Trãi ngơ ngẩn như trong cơn mộng
Trí óc còn xúc động mênh mông
Đất trời như một khoảng không
Không tình, không lý, không vòng nghĩa ân
*
Trãi nén giận, nghiêm trang khẽ hỏi
Lê Phó sư, tôi tội tình chi ?(11)
Đến giờ chưa biết tội mi
Thông đồng với giặc biên thùy nhiễu nhương
*
Mi cùng Hãn chung đường với Thiệu
Hưởng hoàng ân chẳng chịu ngồi yên
Lại gây rối rắm lụy phiền
Cho dân cho nước triền miên khổ sầu!
*
Không chịu nổi những câu ngụy biện
Trãi yêu cầu diện kiến Thánh hoàng
Khí rằng : Tội trạng rõ ràng
Này đây chiếu chỉ kêu than nỗi gì
*
Trước bạo lực còn chi để nói
Trước độc tài, ai giỏi biện phân ?
Chỉ thương chút phận tôi thần
(180) Hết lòng vì nước, vì dân, vì nhà
*
Nguyễn Thị Lộ xót xa trong dạ
Thương chồng yêu tuổi đã năm mươi (12)
Xông pha mấy chục năm trời
Giờ chưa thấy được cuộc đời an vui
*
Giữa đau xót, ngậm ngùi số phận
Và bôn ba lo lắng cho chồng
Không gì cản trở được lòng
Kiếm người giúp đở bên trong bên ngoài
*
Bao bè bạn đêm ngày thăm hỏi
Cố wắng tìm nguồn cội nguyên do
Xem ai là chủ chuyến đò
Chở chuyên kẻ nịnh mà so tôi hiền
*
Nay đã rõ căn nguyên cội rễ
Họp cùng nhau tìm kế phân bày
Bạn bè còn lại mấy ai
Quyết nhờ Đinh Liệt, tỏ bày biện minh (13)
*
Phía bên ngoài sự tình đã sáng
Lộ hết lòng cáng đáng bên trong
Làm sao gặp được mặt chồng
(200) Co ro, cá chậu chim lồng tối tăm
*
Nàng tìm đến Huy Chân công chúa (14)
Một giai nhân hương lửa nhà Trần
Tự mình nguyện đáp 诃?ng ân
Chỉ mong cùng được góp phần đắp xây
*
Không thể ngược đường dây lịch sử
Nước non giờ đổi chủ thay ngôi
Nhà Trần đã mất cơ trời
Thì đem tài sức giúp đời nhà Lê
*
Trước ổn định lời thề thống nhứt
Rằng vua Trần chấm dứt tranh quyền
Từ nay một bến một thuyền
Ai người chèo chống đến miền vinh quang ?
*
Vốn mến chuộng tài ngang Phạm Lãi (15)
Trí mưu thần đâu hãi Trương Lương (16)
Nghe lời Thị Lộ phân tường
Huy Chân tìm đến khám đường thăm ông
*
Giữa cay đắng chất chồng tâm não
Bốn bức tường mờ ảo hôi tanh
Nghĩ sao cho hết lòng mình
(220) Nói sao cho hết ý tình đục trong
*
Không mảnh gìấy, bút cùn chẳng có
Biết làm sao bày tỏ nỗi lòng
Làm sao đến tận đền rồng
Để vua phân biệt màu hồng màu đen
*
Bao câu hỏi rối ren trong trí
Bao niềm tin vốn dĩ lung lay
Trọn lòng trung nghĩa không phai
Hay mau tìm chốn non Đoài lánh thân
*
Trong lối sống số phần đã chọn
Một con đường trước đón sau đưa
Nước non lo mấy cho vừa
Mà sao tâm trí vẫn chưa yên lòng
*
Đang lo lắng giữa trông giữa đợi
Bỗng chợt nghe tiếng gọi thanh tao
Dư hương, âm hưởng ngọt ngào
Phát ra từ... một kiếp nào về đây
*
Nguyễn Thừa chỉ, hỏi Ngài thức ngủ ?
Tôi đến thăm, nhắn nhủ vài câu
Biết trong khám lạnh u sầu
(240) Nhớ thương làm bạc mái đầu trung cang
*
Tôi đã hiểu rõ ràng chi tiết
Nhờ vợ ông khúc chiết tỏ bày
Này đây mấy vật cầm tay
Sâm dùng giữ sức, giấy mài mực thoi
*
Trong khám lạnh theo ngòi nét bút
Sớ khiếu oan un đúc nỗi lòng
Bên ngoài xin xét đục trong
Thánh hoàng mở lượng khoan hồng thứ tha
*
Ngài cứ thảo, đôi ba ngày nữa
Tôi trở vào, đứng tựa hiên tây
Nhận xong sớ khiếu oan nầy
Sẽ trình Thánh thượng xét dầy công lao
*
Trước nghĩa cữ, nghẹn ngào xúc động
Cúi xin người chuyển vọng bài thơ
Chứa chan tâm sự mong chờ
Của người đã đến bến bờ nghĩ suy
*
Năm mươi tuổi, đường đi một lối (17)
Sao cuộc đời chìm nổi lắm phen
Danh hư trắng, họa thực đen
(260) Thương yêu vì nước, ghét ghen vì tài
*
Do số kiếp không ai tránh khỏi
Bởi lòng trời chưa nới tơ vương
Cố đem tâm sự trung lương
Ghi vào trang giấy phân tường đục trong
Nguyễn Gia Linh
(11) Lê Quốc Khí là cháu kêu Lê Lợi bằng chú, giữ chức Phó sứ Mật vụ viện, là kẻ chủ mưu để hãm hại Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Trãi và Phạm Văn Xão sau nầy
(12) Lê Lợi vừa lên ngôi vua được một năm, đến năm Kỷ Dậu (1429) đã ra lệnh giết Trần Nguyên Hãn và bắt nhốt Nguyễn Trãi. Lúc ấy Nguyễn Trãi vừa được 50 tuổi (âm lịch)
(13) Đinh Liệt, cháu gọi Lê Lợi bằng cậu, là một quan võ có tài lại cũng giỏi về văn (thường làm thơ bằng cách nói lái), rất mến phục tài trí và sự trung thành của Nguyễn Trãi
(14) Huy Chân công chúa là con của vua Trần cuối cùng, đã tự nguyện xin làm phi của vua Lê Lợi, khi nghĩa quân vừa tiến đến Nghệ An
(15) Phạm Lãi, mưu thần của vua Câu Tiễn, đã giúp vua phục hồi nước Việt. Sau khi thành công đã từ quan, xin về quê an hưởng tuổi già
(16) Trương Lương, quân sư của Lưu Bang, đã giúp ông nầy đánh bại Hạng Võ để lập nhà Hán, cũng từ quan về hưu sau khi thành công.
(17) Theo Vằng Vặc Sao Khuê của Hoàng công Khanh, Nguyễn Trãi đã gởi bài Than Oán như sau :
Chìm nổi cuộc đời năm chục năm
Non quê suối đá phụ tình thâm
Đáng cười họa thực mà danh hảo
Quá xót trung côi lắm kẻ căm
Tại mệnh làm sao mà tránh khỏi
Do trời chưa nở bỏ tư văn
Trong lao oan nhục ghi lưng giấy
Chín bệ nhờ ai đệ tố trần
Thơ cùng tác giả
Thơ tương tự
- Lệ Chi Hận Sử (01) (Nguyễn Gia Linh)
- Lệ Chi Hận Sử (03) (Nguyễn Gia Linh)
- Lệ Chi Hận Sử (04) (Nguyễn Gia Linh)
- Lệ Chi Hận Sử (05) (Nguyễn Gia Linh)
- Lệ Chi Hận Sử (06) (Nguyễn Gia Linh)
- Lệ Chi Hận Sử (07) (Nguyễn Gia Linh)
- Lệ Chi Hận Sử (08) (Nguyễn Gia Linh)
- Lệ Chi Hận Sử (09) (Nguyễn Gia Linh)
- Lệ Chi Hận Sử (10) (Nguyễn Gia Linh)
- Lệ Chi Hận Sử (11) (Nguyễn Gia Linh)