Đồi Mai Vùi Kiếm (5)

Tác giả: Bùi Thanh Kiên

HỒI THỨ NĂM

Dưng biểu chương, tấn cử Châu Thông
Thắng Nghiệp Thành, trùng phùng mai trước

5A-QUÁCH TỬ NGHI ĐỀ CỬ CHÂU THÔNG


Phiên chầu tới lệ đầu Xuân,
Tử Nghi dưng sớ điều trần điện loan
“ Kế khơi nước lũ Trường Giang
Tưởng bình Nam Ngạn vẫn hoàn tay không
Tâu lên tấn củ Châu Thông
Nắm quyền thống lãnh binh nhung đối đầu”.
Hỏi qua khanh tễ đương trào
Đức tài tánh hạnh thế nào cho minh
Lời tâu thấu lẽ đạt tình
Nhà vua ban chiếu sứ tinh lên đường
Lịnh thay người thủ biên phương
Châu Thông phụng chỉ going cương ứng hầu
Phán rằng: “Chận chốt bấy lâu
Nay giao Quang Bật trước sau sắp bày
Ngự triều vừa hỏi sáng nay
Đôi bên xáp trận, dở hay đã tường
Nam chinh, ngươn soái bị thương
Sức người hao kiệt, khó đương thế tình
Mất còn trong cuộc giao tranh
Khá tua đắp lũy bồi thành chống Yên
Xét trong tướng giỏi tôi hiền
Mừng khanh thao lược bút nghiên co dòng.
Đặc sai chưởng quản binh ròng
Ấn vàng,gươm lịnh, tiện dung trong quân”.
Tâu rằng: “Cao thẳm chin từng
Ơn mưa mốc gội, sánh vừng thái dương
Nhọc nhằn lũng nước ngọn sương
Mười phần vắn số, một phương sống còn
Gió giông sóng dữ thuyền con
Phải tay lấp biển dời non mới là
Ý thần chờ đợi soái gia
Phục hồi khí lực dần dà sẽ hay”.
Tử Nghi quì trước kim giai
“Cứu binh như cứu hỏa tai khác gì
Tướng quân tài ít kẻ bì
Non đồng vách sắt phải kỳ ngửa nghiêng
Ra tay tướng mạnh Kỳ Liên
Gở dân đen khỏi xích xiềng phong ba
Thuấn Nghiêu thánh đức rạng xa
Xây nền lễ trị, quốc gia thái bình”.
Châu thưa: “Tự lượng sức mình
Khó đưa vận nước vượt gành chông gai
Rủi ro lỡ một lầm hai
E không đáp nổi mảy may thâm tình
Soái gia cùng với thân sinh
Bút nghiên chung lứa, lửa quỳnh sánh đôi
Thương mình gặp thận cút côi
Nguyện hầu dưới trướng qua hồi gian nan
Nghiệp Thành xe ngựa địch càn
Chơn Trần dòng đục, Sài Tang máu hòa
Thân đơn đầm ấm tình nhà
Cửa viên trăng gợn sóng trà đậm hương
Phán rằng: “Cân nhắc sở trường
Cắt người đúng việc, liệu lường mới hay
Hồn thiêng đất tổ an bài
Quách trong then khóa, Châu ngoài hải ngung

5B- ĐĂNG ĐÀN BÁI TRƯỚNG

Ngày lành luống đợi những mong
Gấm năm màu dệt mây lồng Vị giang
Xe rồng biệt điện Kim Loan
Cấm binh hộ giá thẳng đàng Liễu dinh
Mối duyên cá nước mặn tình
Đồi Long Trung bái Khổng Minh độ nào
Thạch bàn trăng xế buông câu
Xe Văn tìm lối, lễ cầu Tử Nha
Đài chưng dị thảo kỳ hoa
Cờ trương ngũ sắc, nhạc hòa bát âm
Khua chiêng gióng trống ầm ầm
Tướng đài cao, đội ngự lâm đứng dàn
Kim khôi giáo bạc đai vàng
Lên đàn Châu bước giữa làn trầm bay
Mặt nhìn hướng Bắc chắp tay
Quì nghe Thái Sử đọc bài chúc văn
Cáo cùng “Hà Bá Sơn Thần
Năm non bảy núi sông gần biển xa”
Đông Cung Lý Xúc trao ra
Ba xuyên vân tiển, cung ngà Chấn Thiên
Khấn rằng: “Thủy Thổ Sơn Xuyên
Ban ơn cứu độ sĩ hiền từ nay
Trời xanh chin vạn, đầt dày
Núi cao dẫu mấy sông dài bao lăm
Trao người thề nguyện nhứt tâm
Dãi dầu sớm nắng, ăn nằm chiều sương
Phơi gan trải mật mười phương
Dấu lân hoa nở ngát hương thái hòa”
Cung tên gói bức khăn là
Cúi mình đón tiếp đưa qua ngang mày
Đi lên phủ phục từng hai
Hướng cung Càn vọng bên tai mấy vần
“Chứng tri Nhựt Nguyệt Linh Thần
Các vì Vua trước trị dân nối đời
Trời xui cồn hóa biển khơi
Quyền giao tướng giỏi đáp lời non sang
Dưới tay năm lộ binh ròng
Rộng ban đức lớn, khéo dùng mưu cao
Công bằng phép trọng làm đầu
Cầm cân nẫy mực trước sau chẳng dời
Tứ ban vật báu cho người
Thẳng tay sáng suốt chế tài ba quân
Tử Nghi trao phủ ân cần
Châu Thông lạy tạ lên tầng thứ ba
Áo rồng ánh sắc vàng pha
Cửu long nạm ngọc, khăn sa hồng đào
Mặt trông Nam nhạc cuối đầu
Tiêu thiều trổi khúc ngạt ngào khói hương
Cáo rằng: “Theo nghiệp tiên vương
Bao triều thạnh trị, biên phương vững vàng
Vừa rồi giặc cỏ Sử An
Dấy binh bốn cõi gieo nàn muôn dân
Dốc lòng noi dấu Thương Ân
Chư hầu họp bến, Mạnh tân dẹp loàn
Nằm gai nếm mật gian nan
Điều xe khiển pháo Võ Thang về trào
Trình lên đất thẳm trời cao
Gởi vàng chọn mặt tin trao quyền hành
Châu Thông thống lãnh muôn binh
Đặc sai trọng nhiệm Bắc Bình phạt Yên”.
Phán rằng: “oai đức cửa viên
Nắm cầm quân pháp mối giềng kỷ cương
Trao thanh gươm báu Thượng Phương
Hổ phù ngọc tiết ấn vàng nguyên nhung
Gìn non nước vẹn lòng trung
Đưa thuyền cỡi sónTâu rằng: “Bồi đắp san hà
Xả thân đâu ngại lệ hòa máu xương
Oằn vai gánh nặng cang thường
Kiếm mòn, tóc điểm màu sương sá gì!
Lòng son nguyện giữa đơn trì
Trên vì chín bệ, dưới vì muôn dân”.
Hỏi rằng: “Phá Sở dẹp Tần
Văn tài sử Mã, kinh luân thong làu
Kén binh chọn tướng làm sao
Dùng người xếp bực lẽ nào khá phân”.
Tâu rằng: “Thấu việc xa gần
Ung dung chiếu rượu chỉ cần vẫy tay,
Gieo mưa cuốn bão cõi ngoài
Được thua quyết chắc không sai tơ hào
Tam tài một mối gồm thâu
Xét trong võ đức, đứng đầu là nhân
Khương Công quả thiệt tướng thần
Anh hùng chỉ một, dưới trần mấy ai
Bàn qua hào kiệt hạng hai
Sắp mưu dung trí giỏi tài điều quân
Thắng muôn trận lớn lẫy lừng
Kế sâu nọc hiểm không ngừng liệu toan
Đủ trò dụ gạt trá gian
Điêu linh trăm họ, vẻ vang riêng mình
Xương khô xây lũy đắp dinh
Ép người vào rập, lấy hình làm căn
Hoài Âm sát khí đằng đằng
Lôi ngay Ân Cái chém. phăng bêu đầu
Nghinh ngang đeo ấn phong hầu
Nhúng tay máu đỏ, người đâu nễ vì
Cuối cùng loại tướng Trương Phi
Kế mưu chẳng có dùng khi phá thành
Khiêng cây vác đá ai kình
Kẻ chê thô bạo, người khinh ngu đần
Dẫu như ruột thịt tay chân
Hiểu câu: Dùng mộc dụng nhân nằm lòng”.
Hỏi rằng: “Khói cuộn lửa going,
Khá bày thế thủ thế công cho tường”.
- Địa hình hiểm trở Bắc Phương
Rừng già mút mắt Bộc Dương, Hình Đài
Quân kỳ len lỏi mạn Tây
Ngựa xe lính bộ đánh ngoài miền Đông
Âm thầm đêm tối vượt sông
Ém quân đất hiểm, dìm rồng đáy sâu
Ải xa, Sơn Hải địa đầu
Ghe thuyền tốc chiến để cầu thượng phong
Xẻ khu chia mảng cắt vùng
Giặc kia ngách bí hang cùng phải tiêu
Giang Nam hồ lắm ngòi nhiều
Đầm lầy chằm rộng khó điều đại binh
Rải người thay dạng đổi hình
Cải trang thương khách bồng bình bán buôn
Đó đây kiếm cách lách luồn
Dò đường lớn nhỏ, coi truông vắn dài
Dùng mưu bỏ một đánh hai
Trường An cố giữ không nài hy sinh
Lửa dồn chụp tới thình lình
Nghiệp Thành khói bốc, Động Đình lửa lan
Chực chờ bờ Bắc Trường Giang
Mở xem túi gấm băng ngang hiệp đồng
Binh hùng tám vạn chung lòng
Ngàn cân đè trứng mới mong tranh cường
Dẹp rồi về cứu Lạc Dương
Chận đường cứu viện Bắc Phương kéo vào”
Phán rằng: “Ý hợp tâm đầu
Mưa rào cứu hạn bấy lâu - thỏa lòng”.

5C- NỖI NHỚ NHUNG

Mài nanh cọp, giũa móng rồng
Gọi thêm gió đỡ cánh hồng vút cao
Giáo trường nung chí anh hào
Giong xe xáp trận, ôm phao vượt dòng
Đưa tin, bắn mũi tên đồng
Mồi châm hỏa pháo, thuốc xông a ngùy
Ngày thao luyện vút qua đi
Đêm sao chậm chạp nhớ gì bâng khuâng
Mộng lan man quẩn quanh thân
Làng quê mây lạnh phủ lần lối thương
Số từ chai mặt gió sương
Đảo chao xác lá, gót vương bụi bùn
Bao giờ tan lũ dế trùn
Ải lang bặt bóng cát hồng ngựa say
Về đi thôi ! Khóm mai gầy
Vó lùa cầu nhỏ canh chầy trăng thanh
Cúc vàng chen sắc liễu xanh
Ráng chiều khói sớm xây thành non tiên
Ngặt vì khắc khoải tiếng quyên
Giục trai cắp giáo mang khiên lên đàng
Huỳnh Sa hương lụn nhang tàn
Tòa sen phách dựa trái oan sạch rồi
Hay còn gió núi mây dồi
Tay ôm yên ngựa ngủ ngồi rừng hoang
Theo con trăm trận dọc ngang
Đỡ che tên đạn nguy nan bao ngày
Mẹ già áo mướp quần gai
Cơm và lơi nhịp đếm hoài lệ tuôn
Phên đơn hắt bóng bấc buồn
Chơn trời xa sợ sóng cuồn biển xanh
Chị còn liếp cải bờ chanh
Có hay đầu đã chit vành khăn tang?
Mấy thu đợi cá trông nhàn
Biết còn tần tảo lúa nương dâu tằm
Nhớ người rừng lạnh căm căm
Nắng thiêu cho nón, mưa dầm giúp tơi
Nêu cao đạo nghĩa ở đời
Dễ gì danh lợi đổi dời chơn thân
Sân mai vằng vặc bóng ngân
Thả tay lưới sớm, nhấp tuần trà trưa
Chiều đi Long Ẩn nắng lưa
Phách sanh sóng điệu đàn xưa Mai Đình
Biết còn mưa đượm mát nhành
Hay khô héo cội, vóc hình xanh xao!
Tưởng người má ửng thẹn đào
Nói năng khuôn phép ra vào lễ nghi
Quen hơi bén tiếng mà chi!
Mong hồng chờ nhạn biết gì âm hao
Ai xuông lưỡi mác đầu dao
Để ai thui thủi giọt ngâu đêm trường
Có còn rẽ tóc soi gương
Ngâm câu đầu bạc ngóng phương biên đình?
Hay giờ then lỏng vườn quỳnh
Cài tram tách bến để mình bơ vơ
Gặp lại nhau những đợi chờ
Trăng thờ thẫn gọi cành hờ hũng sương
Liễu buông cành rũ nách tường
Xa hun hút đóm cuối đường đìu hiu.

5D- ĐÁNH NGHIỆP THÀNH-THÂU PHỤC GIANG HẠ

Nghiệp Thành mây ố bóng xiêu
Buốt tê vọng gác buồn thiu lửa huỳnh
Nửa đêm đánh pháo nổ ình
Kho lương phựt lửa, quân binh xô bồ
A Ngùy rải mớ củi khô
Mùi xông ngộp thở, khói lòa thành trung
Vọng lâu dòm xuống khắp vùng
Binh triều chen gót, đuốc thông sáng trời
Tỏa sao thép lạnh ánh ngời
Dập dồn diều lửa bời bời bay giăng
Rắp đem cát đá sông Hằng
Kêu mưa hú gió lấp bằng biển sâu
Bất ngờ, dẫu sẵn mưu cao
Dễ gì bắn sẻ vụt lao qua mành
Nơi nơi nghiêm nhặt gác canh
Tay liền cung nõ, mặt thành cắt phiên
Thế cờ tấn chốt tranh tiên
Giương xe pháo kích giữ liền thượng phong
Đêm sâu đùn đặc mây lồng
Tuyết tê bấc lạnh, giọt rồng điểm ba
Ngại gì thây đổ máu sa
Chiến trương tỏ được gan già mới hay
Yên binh bày trận mặt ngoài
Thủ Trung xáp tới, tuốt tay gươm trần
Quyết tâm áp đảo tinh thần
Đội Liên hườn mã rần rần xông lên
Da dày phủ ngựa bốn bên
Giương đao chặn lối, buông tên kín màn
Câu liêm trận pháp đã dàn
Quần nhau cân sức ngửa ngang trận tiền
Vỗ bờm ngựa, dạ đảo điên
Đâu ngờ lâm bước truân chuyên khốn cùng
Mồ hôi trán nhểu ròng ròng
Hét hò sĩ tốt thoát vòng tử sanh
Chật chen quân địch bao quanh
Khóa đường lui tới, thế tình nguy nan.
Cả cười, Tuấn Đức chặn đàng
Điều trăm mã kỵ, quay ngang ngọn chùy
Mật to gặp phải gan lì
Hẹn đâu mà gặp cương ghì gườm nhau
Nửa cân tám lạng đương đầu
Cầm đồng mấy hiệp thấp cao chưa bày
Thủ Trung trổ hết thần oai
Roi da lén rút quất ngay mặt thù
Đòn ra tay trái chưa thu
Gươm trường bên phải lướt vù qua vai
Khom mình, Tuấn Đức vọt ngoài
Xây lưng giương nõ nhắm ngay yết hầu
Giặc già lanh mắt hụp đầu
Đánh choang, tên sắt chạm vào kim khôi
Nghiệp Thành khói cuộn lửa trôi
Thủ Trung sốt vó sải hồi viên môn
Phất cờ gióng trống đuổi dồn
Chơn không bén đất, Trung hồn phách bay
Biết không tìm được vận may
Mặt chay mày đá chạy dài cho xong
Lũy dài sụp ngã mạn Đông
Quân triều thả ván đè chông vượt hào
Mỏi mòn sĩ tốt tiêu hao
Trương Trung Chí vội phá rào bôn ba
Ngựa đừ, biếng ngọn roi tra
Lôi thôi cờ xí, rườm rà tàn quân
Cây buồn lã ngọn rung rung
Đắng cay khóe mắt, ngập ngừng lối qua
Hẳn chừng ngót chục dăm xa
Gặp binh An Thủ Trung ra hợp đoàn
Lòng mừng chuyện vãn hỏi han
Tính sơ tổn thất, luận bàn mưu cơ
-“Mấy ai lường được chữ ngờ
Thời suy vận rủi, thế cờ sa tay
Đọ so chiến trận mới hay
Châu Thông sáng trí cao tài khó đương”.
Trung rằng:”Trúng trật chưa tường
Thầy đồ học lóm mấy đường kiếm cung
Vắng mèo chuột lắt vẫy vùng
Thứ ương gàn sánh anh hung, ai hơn!
Thiên Lương xưa cũng một phồn
Muống bèo chen đứng giữa bồn quế lan
Lửa nung biết đá biết vàng
Mang tên bỏ ải Đồng Quan chạy dài
Vùi chôn xương nát đồi cây
Vóc chồn cheo, sức cáo cầy kể chi.
Châu Thông con lão ra gì
Mài mò mưu chước Trương Nghi, Võ Hầu
Nghiệp Thành lưng mật bấy lâu
Những lo bỏ xác rừng sâu âm thầm”.
Chí rằng:”Nghĩ vậy là lầm
Giành tranh thiên hạ, nhơn tâm đứng đầu
Ngựa Yên xưa giẫm Phụng Lâu
Đất trời mù mịt một bầu hỗn mang
Là do chính sự nát tan
Tham quan nhũng nhiễu, trào đàng tranh phân
Thuế sâu đổ ập đầu dân
Ngôi cao thiên tử lạt dần mùi hương
Thừa cơ nuôi mộng bá vương
Đập cho xã tắc nhà Đường tiêu tan
Huyền Tôn trốn sảng chạy hoàng
Lui về Ba Thục, chỉnh trang thế tình
Dậy oai thần võ anh minh
Dỗ an trăm họ, thanh bình một phương
Thôn quê cho đến phố phường
Trên hòa dưới thuận, yêu thương chung lòng
Đừng coi nhẹ gã Châu Thông
Nếp nhà đạo lý, giống dòng binh gia
Còn thơ, tiếng đã nổi xa
Vẫy vùng trận bút, xông pha côn quyền
Tầm nhìn đạt địa thong thiên
Tuổi non nhưng trí sánh liền Ngọa Long
Cuộc đua chem. cọp bắt rồng
Tử Nghi ra sức hợp đồng Châu Lang
Chuyển xoay biến hóa chiến tràng
Phép khuôn chắc chắn đáng trang anh hào
Nhơn nhơn tự đắc làm cao
Không người dưới mắt trước sau lụy mình”.
Gian nan lên thác xuống gành
Ngược xuôi đưa đẩy buồn tanh theo dòng
Trũng sâu đèo dốc chập chồng
Chênh vênh đá dựng lạnh lùng thâm nghiêm
Cựa mình trở giấc chim đêm
Đường mòn thoai thoải cỏ mềm vờn quanh
Nhìn lâu Trung Chí dùn mình
Rắn khoanh cọp núp, phục binh chưa tường
Rối lòng trăm mối vấn vương
Mất còn gang tấc liệu lường được đâu
Đóng quân gác ngọn cây cao
Bụi lùm giấu dạng, bấm nhau canh phòng
Chen mây, rạng mặt trời hồng
Rừng ào lá động, mấy vòng quân vây
Sương tan cờ phất phơ bay
Ngươn Hanh xuất trận với vài trăm binh
Cười rằng:”Con tạo công bình
Cao bay xa chạy, giấu mình mãi sao!
Lưới trời lồng lộng trên cao
Bàn tay nhơ nhớp máu đào - Khó chui
Rã thây khao thưởng lằng ruồi
Cọp lôi quạ rỉa, xác vùi xanh cây”.
Hai bên thủ thế trận bày
Sấm gầm ngọn kiếm, sét bay đầu chùy
Lợi Trinh hợp sức Quán Chi
Điều quân thiện xa, tay ghì nõ cung
Càn Chơn, Trung Chí, Thủ Trung
Thế cô đất hiểm buộc lòng giao chinh
Ngăn luồng sóng dữ Đường binh
Xe lương rắp nẻo, đá gành che quân
Xơ rơ bộ kỵ hợp quần
Mở thong đường máu băng chừng càn ra
Càn Chơn cương giựt roi tra
Múa đao xông xáo đuổi nà Quán Chi
Nắng chiều trãng cỏ xanh rì
Chén đưa chưa nhắp, tiếng tì thúc thôi
Giàm danh khóa lợi tanh hôi
Trái oan đã kết để rồi gặp đây
Quê xưa lẻ bóng trăng đầy
Khăn tang ngùi nhớ xác xây nên thành
Vinh quang vài kẻ tướng khanh
Biết chăng xương lính rừng xanh lớp hàng
Binh Yên nát lối tan đàn
Sa cơ - Gắng gượng khó toan bước cùng
Thái Sơn nhẹ tựa lông hồng
Gan vàng chọi với tên đồng được sao!
Càn Chơn sểnh miếng rơi đao
Phút giây làm quỉ không đầu nào hay
Dẫn thân vào chốn đọa đày
Tâm thần rối loạn, hai tay rã rời
Thủ Trung dẫu muốn đổi dời
Én đơn đâu dễ kéo trời vào Xuân
Chỉ mành treo ngọn ngàn cân
Giữa trùng tên đạn. non thần phách bay
Nhìn quanh đâu thấy còn ai
Não lòng, Trung Chí thở dài lặng thinh
Hà Nam sáu vạn tinh binh
Cuốn trong bão lửa nát hình tan xương
Được thua hơn kém đã tường
Lưng trời tiếng hạc đêm sương giựt mình
Bước thầm đêm rợn hãi kinh
Chơn qua đất lạnh, gập ghình truông sâu
Ngại ngần lởn vởn mây sầu
Trời hừng hững sáng tới đầu ải quan
Tư Minh dẫn viện quân sang
Thân chinh xông trận cứu an Nghiệp Thành
Truyền rằng:” Đưa trước kỵ binh
Thuyền bè tập hậu thủy trình Ba Khâu
Giục giông thét gió đưa mau
Dốc toàn sức lực đối đầu Châu Lang
Mông xung, khai lãng giăng hàng
Phăng phăng lướt sóng Trường Giang ngược dòng
Trời mu dày đặc sương đông
Chèo lan khua mái minh mông sông dài
Chợt đâu pháo nổ inh tai
Đầu người lố nhố, tên bay kín trời
Trôi xuôi bè lửa khắp nơi
Cháy bừng thuyền gỗ giữa vời chông chênh
Tuốt gươm đỡ gạt bốn bên
Hối quân lên bộ bến ghềnh lựa chi
Thót yên, thúc gót ngựa kỳ
Cương buông , roi quất kể gì gian nan.
Đầu non thoáng bóng binh dàn
Quày lưng mang chạy tìm phan ẩn mình
Thấm mùi sướng khổ nhục vinh
Tàn quân bại tướng đồn binh Ô Đề
Chia cay chịu đã chán chê
Đêm đi ngày lánh lẻn về Bắc Yên
Tin đưa thắng trận liền liền
Châu Thông khẩn cấp lịnh truyền tấn binh
Nhận chìm thủy trại Động Đình
Diệt quân tiếp ứng cứu thành Du Giang
Nhồi rơm nhét ngách đào hang
Đông dương Tây kích đánh tràn Giang Lăng
Trừ Trung sóng nổi đất bằng
Liên quân thủy bộ đạp phăng Giang Hoài
Võ Xương lũy rộng thành dài
Thế cờ nghiêng lệch co tay hàng đầu
Trời xui biển hóa cồn dâu
Nồi kê chưa chin sông sâu nên đồng
Khói un đốt rụi bầy ong
Mừng lên khóe mắt, giọt nồng chảy quanh.

5E- LỄ HẠ CÔNG – CHÂU THÔNG GẶP LẠI NGƯỜI XƯA

Thuồng luồng sút móng gãy nanh
Ngựa phi báo tiệp tin lành trào ca
Quên đi bùn bụi quan hà
Tạm nhàn nhã nhấp chén trà vọng lâu
Nhớ công bồi lũy đấp hào
Thưởng người sống chết cùng nhau chiến tràng
Trại dinh lụa đỏ buông màn
Vẳng xa kèn sáo, giăng hàng hoa đăng
Đờn ca đào kép Ngũ Lăng
Ngóng cây qua núi, chèo trăng xuôi dòng
Nhường nhau nửa hớp rượu nồng
Chia bùi xẻ ngọt giữa lòng quân quan
Tiệc hoa canh lụn gần tàn
Tuần phiên dắt một nữ lang tới hầu
Vóc mai nhuốm nửa trời sầu
Đứng chờ rón rén, đôi câu tự tình:
Gởi rằng: “Chút phận linh đinh
Vàm sông trôi nổi, bến đình bơ vơ
Ngô nghê tài mọn dây tơ
Hát rong độ nhựt đến giờ ba thu
Cong đuôi beo cọp chạy vù
Rồng doanh trời thẳm mây mù bay đi
Lịnh ban nào dám ngươn trì
Xông sương lướt bụi quản gì tấm thân
Gió mưa hao tổn tinh thần
Đường xa nấn ná thôn lân chầy ngày
Lễ mừng coi hãy còn dài
Đờn thô hát vụng đôi bài mà chơi”.
Quân truyền thềm dưới tạm ngồi
Dạo dây tấu khúc đệm lời xướng ngâm
Ngón ngà gọt chuốt ngũ âm
Phím tơ ruột đứt cung cầm máu loang
Ca rằng: “Chiều đổ non ngàn
Phân vân nắng úa, bang hoàng nẻo quê
Êm êm niềm nhớ lén về
Song thưa lẻ bóng, sao Khuê cuối trời
Buồng không giọt thảm đầy vơi
Lá khô ngập lối, nửa vời hoàng hôn
Gió may chớm lạnh cõi hồn
Vào mưa, sấm động lũ dồn miên man
Chuyển mùa lã cánh sen tàn
Cột xiêu phên đổ một gian tiêu điều
Nhớ người bước lạc bóng xiêu
Hành trang dường gói ít nhiều buồn thương
Mai gầy, mặt dạn gió sương
Trán in núi sụp, mắt vương biển trồi
Qua đây đêm muộn lần trôi
Sóng xa xô tới, nước nhồi lại đi
Thềm rêu dấu cũ xanh rì
Động Đình ngực hí, Hợp Phì tên reo
Ai đi gối kiếm mây đèo
Buồn se vóc liễu, trăng treo giang đầu
Đêm rằm, trải chiếu bờ ao
Ai ngồi đọc sách, mình hầu quay tơ
“Quay tơ phải giữ mối tơ
Dầu năm bảy mối vẫn chờ mối ai”
Mịt mờ tháng rộng năm dài
Mắt đăm đăm hướng chân ai tấc đàng”
Tay tiên chuyển lượn sóng lan
Thoát đi đọng giọt sương ngàn cô đơn
Âm thanh keo kết chập chờn
Quyện quanh xoắn xuýt gió vờn liếp tre
Trầm sâu, dế thở than hè
Trưa quê tĩnh mịch, tiếng ve kêu sầu
Hàng cây tê dại gục đầu
Nghe mưa lất pha6’t trên tàu lá đan
Lửng cao, non lợt trăng vàng
Sơn ca vút thẳng rang loang sắc hồng
Tiếng khoan, chinh phụ nhớ chồng
Phòng the cay mắt giọt nồng xót xa
Ruỗi mau, tiếng thúc giục hoa
Mận mai rộ cánh, liên hà đậm hương
Trong veo, hơi thoảng nách tường
Nhặt thưa kẽ trúc, tiếng buồn chậm rơi
Phổ âm, thay điệu đổi lời
Phiêu diêu thanh nhạc, tuyệt vời giọng ca
Rưng rưng khóe, ngấn nước sa
Người nghe đâu khỏi xót xa cõi lòng
Tương Như há dễ sánh cùng
Phụng Cầu Hoàng hẳn thẹn thùng dám so!
Khói khơi hương lửa ấm lò
Chắp đôi nến trắng, bày giò phong lan
Châu Thông vén mép màn loan
Lịnh viên hầu rượu mời nàng vô trong
Bao nhiêu oan khổ gánh gồng
Còn tươi vẻ mặt còn cong nét ngài
Bụi trần sạm liễu gầy mai
Vẫn in vóc ngọc, vẫn dài dáng xuân
Sững sờ, Châu hỏi áng chừng
“Khá phân danh tánh mựa đừng giấu ta
Phải Huỳnh nương ở Thạnh hòa?
Vọng hình trông bóng người xa mắt mòn
Chơn trần chai đá sườn non
Đói ăn khát uống héo von tim sầu ?”.
Cắn môi nàng chỉ cuối đầu
Lời phân ngắt đoạn, giọt ngâu chan hòa
Tay lần đãy gấm lấy ra
Một viên ngọc bích, vuông là, mảnh gương
Dặm muôn nẻo lạ mười phương
vắn dài lệ nhớ lệ thương khôn hàn
Tang bồng ngựa dọc gươm ngang
Mạng treo đầu kiếm lụy tràn ướt bâu
Tìm trăng, trăng khuất đã lâu
Gió khuya lành lạnh day đầu cành ngô.

5F- TÂM SỰ VÂN ANH

Nắng vàng ỏi giọng hít cô
Liễu giăng tơ mát song hồ mái Tây
Tiêu Tương tám bức giăng ngoài
Thả cần câu Vị treo bày bên trong
Châu rằng: “Trời cũng chìu lòng
Đền bù chín đợi mười mong bấy chầy
Phỉ tình tình trước duyên mai
Nhạn Nam én Bắc từ nay chung nhành
Lạnh luồng áo bạc mong manh
Cơm chan giọt thảm riêng dành một thân
Gót sen hoen vấy bụi trần
Mây che lối gặp núi ngăn nẻo đời
Sẩy chơn ven biển góc trời
Đêm đêm mộng mị trồng vời cố hương
Dặm dài ngựa chiến giong cương
Lòng đơn mơ dáng người phương trời nào
Nỗi nhà gặp khổ sầu sao
Cánh bèo nắng lửa mưa dầu hôm mai
Cội xuân tốt nhánh xanh cây
Hay going bão nổi rụng đầy lá hoa ?”.
Mặn môi tức tửi ậm à
Tủi hờn ướt đẫm khăn sa bày tình:
“Trời kia làm chuyện trớ trinh
Đày cho khổ nhục để mình gieo neo
Sóng to ập gãy mái chèo
Vận xui mải miết cố đeo suốt đường
Một chiều cùng khách thập phương
Theo cha lên núi hành hương am thiền
Lối về gặp bước truân chuyên
Viên quan huyện dẫn binh Yên một đoàn
Chật đường cản lối chàng ràng
Lình kình xe ngựa nghinh ngang giáo cờ
Đầu bầy ong kiến ngu ngơ
Chó săn mặt sắt đen mò kiêu căng
Giở trò hạ cấp lằng xằng
Xum xoe lưỡi mối miệng lằng tanh hôi
Trêu hoa mồm chẳng ngượng lời
Bão going chưa chắc đã dời được non
Nguyện trời tiết hạnh giữ tròn
Phận bèo thịt nát xương mòn quản đâu
Lằng nhằng sờm sỡ giờ lâu
Dễ gì cú đậu trên đầu cành ngô
Tên nầy dâm dật tham ô
Bao nhiêu gái tốt xây mồ trong dinh
Có người quyết vẹn chữ trinh
Treo dây đầu vách gieo mình đáy sông
Mặc ai chuốc lục tô hồng
Khăng khăng dạ, sống chết, không lỗi thề
Hổ ngươi bể mặt trâu dê
Hồ đồ hổn độn lẻn về cho xong
Vạc kêu trời xám hừng đông
Xôn xao thầy tớ khóm tòng cội mai
Gia đinh lính lệ đông vầy
Roi trường dựng ngược, giáo dài chỉa ngang
Ngồi nghiêng dựa ngửa sỗ sang
Nghĩ mình kẻ cả, người sang nhứt đời
Hất hàm biểu chủ nhà ngồi
-“Khá khen Huỳnh lão có chồi lan xinh
Gặp nhau ưng bụng thiệt tình
Muốn đây với đó gieo nhành trước mai
Sính nghi rày đà sắp bày
Đợi giờ huỳnh đạo, định ngày rước dâu”.
Cha rằng:” Áo vải quần nâu
Cách chi xứng đáng, con hầu quan trên
Sẻ chuyền nhánh trúc sao nên
Ai coi cỏ lác dựa bên lý đào
Vườn xuân đã mở khóa rào
Trao chìa phải lứa, gieo cầu đúng nơi
Dầu cha mẹ sánh biển trời
Ai đâu lại nỡ nuốt lời với con”.
Liệu không lay chuyển lòng son
Gã bèn hùng hổ giở đòn gian manh
Hét truyền châm lửa mái tranh
Bao nhiêu chắt mót phút đành phủi tay.
Cẳng xiềng cổ xích gông cây
Bước sa nước mắt theo bầy yêu tinh
Chim sầu mất ổ thình lình
Đời cay nghiệt – nghĩ thương mình - thế thôi
Mật đường chót lưỡi đầu môi
Cậy người mối lái, ngọt lời dỗ khuyên
Cắn răng, lòng chẳng vay nghiêng
Vọt roi đòn bộng lụy phiền cũng cam
Then gài kín mít nhà giam
Vo ve muỗi đóị lũ lam kiếp tù
Mì khoai nào đủ đền bù
Nọc căng phơi nắng, đòn thù nát thân
Được tha, đọa kiếp gia nhân
Cơm thừa cá cặn, việc quần quật tay
Chết không chiếu bó thi hài
Giập đùa chôn đại sơ sài cuối mương
Sáng ngày chộn rộn công đường
Họ tên hài rõ Huỳnh Trường sai đâu !
Trẻ già đưa tới sân hầu
Bắt ra trước án cúi đầu quì nghe
Áo đơn da tái khô se
Mặt xanh màu lá, vai đè xích gông
Sai nha phe phẩy quạt lông
Hai hàng côn sắt bố phòng khít khao
Mặt mo lão huyện to đầu
Râu dê mấy cọng mày chau hung tàn
Mỏ dơi mặt thỏ ác gian
Sống vô liêm sỉ theo đàn quỉ ma
Bám vinh hoa lũ mọi già
Miễn thây căng mỡ miễn nhà giàu sang
Vỗ bàn đấm ghế oang oang:
“Tên kia tội trạng khó toàn thây thi
Học theo Khổng Mạnh làm gì ?
Văn chương đạo lý ích chi cho đời
To gan lớn mật bằng trời
Lịnh trên dám chống, lắm lời điêu ngoa
Bây đâu! Bày gậy roi da
Cực hình đọ sức thằng già – Ai hơn ?”.
Đắng cay thân phụ nào sờn
Mắng liều một trận thỏa cơn lửa bùng
Rằng: “Mi là đứa gian hùng
Cam tâm liếm gót Địch Nhung chia phần
Cúi lòn mua chữ vinh thân
Ngoác mồm nói chuyện nghĩa nhân cũng kỳ
Khom lưng bưng bợ man di
Nhà tan cửa nát bỏ đi cho đành
Đon ren đắng mướp chua chanh
Ép ta bỏ đức chọn danh đặng nào!
Bạo quyền lũ ngựa bầy trâu
Đày dân không thể ngóc đầu mới ưng”.
Tía tai đỏ mặt phừng phừng
Thét quân đóng cọc giăng thừng giữa sân
Nặng tay trăm trượng đập giần
Cha già chết thảm trong lần khảo tra
Chiếu trùm bươn bả khiêng ra
Đạp nghiêng lấp cạn rừng già phía sau
Lạnh tanh nhang khói bấy lâu
Ngày đi dãi nắng đêm thâu trăng mờ
Phận mình mang kiếp gia nô
Dằn mâm xáng chén xô bồ uống ăn
Người hiền gặp cảnh khó khăn
Phật trời sẽ dắp bù bằng phước sau
Trong dinh có bác thương đầu
Cảm thương phận gái má đào oan khiên
Dạy rằng: “Khuya có một phiên
Chuyển trăm xe thóc về miền Thương Lang
Che đầu cải dạng nam trang
Thắng yên hộ tống theo đoàn quân lương
Truông đêm rẽ lối giữa đường
Nép vào rừng rậm tìm phương lánh mình”.
Y lời trốn lúc bình minh
Thương cha bạc phận tủi mình đơn thân
Lâu nay quê chẳng được gần
Thềm rêu trăng quạnh mấy lần xuân qua”
Châu rằng: “Bước sẩy chơn sa
Linh đinh một kiếp lệ hòa nắm cơm
Đọa đày quần túm áo ôm
Gìn chung giữ thủy tiếng thơm còn truyền
Qua hồi vận nước ngửa nghiêng
Mộ phần cải táng về liền quê hương”.
Nàng rằng: “Ơn nặng vấn vương
Lòng người biển rộng má hường cưu mang
Trèo non cũng nguyện theo chàng
Đói no sớt chén gian nan chung phần
Giữ cho trong sạch tinh thần
Chữ trinh sao được thanh tân mới là
Nghiêm trang bướm lánh ong xa
Chăm chăm theo đúng nếp nhà kỷ cương
Thắp nhang thờ phụng từ đường
Cử mâm nàng Mạnh, soi gương họ Tào
Lên dây đờn khúc Bạch Đầu
Chia cay sẻ đắng trọn câu chung tình.
Chưa phân loại
Uncategorized