Đồi Mai Vùi Kiếm (2)

Tác giả: Bùi Thanh Kiên

HỒI THỨ HAI

Nương cửa Phật - Châu Thông làu trận pháp
Cản quân Yên – Giác Hải chịu tai ương

2A- Nương Bóng Cửa Thiền

Gót qua dặm nứa truông bương
Nhành khô mưa ái cỏ lan lối sầu
Chùa xưa nom rõ trên cao
Phất phơ ngọn phướn lụa đào gió mai
Mái rêu xanh ẩn tàn cây
Khói hương tịnh độ ngát ngoài tam quan
Lỗ loang thếp nếp chữ vàng
Linh Sơn Cổ Tự bạt ngàn gió mưa
Sân thiền đêm lạnh còn lưa
Bóng người vắng ngắt dật dờ thảo hoa
Bước liều, bực đá vôi nhòa
Chờ coi động tĩnh lăng già am mây
Lặng trang cửa ních then gài
Ngăn đôi - Tịch mịch trong, ngoài lợi danh
Ghé dòm khe hỡ phên tranh
Xếp bằng thư thả, niệm kinh chuỗi lần
Hững hờ, khép mắt ngưng thần
Dĩa dầu tam bảo cạn lần, trắng canh
Từ Bi sức cả minh minh
Mười phương tế độ mặc kinh Đại Thừa
Bè hồng Bát Nhã qua bờ
Siêu linh pháp tướng khói mờ không gian
Chuyển xoay võ trụ tuần hoàn
Lục trần tứ khổ mê đàng, trầm luân
Cúc vàng hực nắng đầu sân
Lao xao trúc động, lâng lâng hoa lòng
Nhìn quanh sơn tự một vòng
Xanh um chóp ngọn chập chùngrừng hoang
Sư già rời nệm bồ đoàn
Lần then hoa, sịch mở toang cử sài
Châu Thông sụp lạy hiên ngoài
Chút thân chìm nổi giải bày đôi câu:
“Rộng thương phận mỏng ảnh bào
Bước chân tục lụy lạc vào thiên môn
Đẩy đưa lớp lớp sóng dồn
Nép bèo bến đục, nương hồn sông mê
Bủa vây kinh khiếp bốn bề
Mắt cay bão lửa, lối về xa khơi
Đắm mình biển khổ đầy vơi
Linh đinh hạt bụi cuối trời tang thương
Chướng căn oan trái còn vương
Thành tâm nguyện được Phật đường tạm dung”
Cả cười: “Cá nước tương phùng
Cơ duyên đã tới lạ lùng chi đâu
Rủi may đưa đẩy lựa cầu
Đất người vầy bạn dễ đâu chuyện thường
Dắt tay nhau đến hậu đường
Ngôn từ rộng mở dặm trường gian nguy
Rằng:”Xem tướng mạo phương phi
Chẳng tay cung kiếm cũng bề bút nghiên
Phong tư tài mạo thiếu niên
Sân che đạo lý, phước truyền tram anh
Cớ chi gió bãi trăng gành
Gác Đằng đưa lối, rừng xanh nẻo thiền
Khá bày tơ tóc căn nguyên
Biện minh hư thiệt, trắng đen cho tường”
Rằng: “Con nặng gánh thư hương
Rớt khoa thi Hội lỡ làng kiếp trai
Kinh kỳ bụi cuốn tro bay
Ngập đầu binh lửa, giăng dày tanh hôi
Hành trang khăn gói phản hồi
Nước non cách trỡ trải mùi gió sương
Trông vời mây phủ cố hương
Cầu hoang quán lạnh, giọt thương giọt sầu
Quê nhà xa lắc Hà Châu
Chim ngàn bạt gió biết đâu lối về
Những mong bảng hổ tên đề
Nào hay phận hẫm – Não nề tay không
Phòng văn mới được tin hồng
Cha già cỡi hạc non Bồng dạo chơi
Trêu ngươi vật đổi sao dời
Ngùi trông non Thái mây trời che ngang
Sách đờn thâu xếp vội vàng
Dầm mưa chải gió qui hoàn cố viên
Đường đi gặp cảnh u phiền
Đầu non cướp đón của tiền còn chi
Cúi xin đức lớn từ bi
Ruới cho giọt nước dương chi tịnh bình
Nguyện lòng kết cỏ ngậm vành
Hải hà chi lượng đoái tình xót thương”
Sư rằng:”Phật pháp hoằng dương
Dang tay tiếp dẫn mười phương muôn loài
Số phần trót đã an bài
Con chim bay mãi khôn ngoài khuôn thiêng
Kệ kinh nguôi mối ưu phiền
Giong buồm biển giác, lánh miền mê tân
Mịt mù sóng hoạn phù vân
Bôn ba mỏi gối mòn chân ích gì
Đắm vòng tham muội sân si
Gẫm câu “Bạng duật tương trì mà đau
Hương hoa đàm ngát trời cao
Vun bồi cội phước, tiêu dao lâm tuyền
Mái Đông đơn bạc thư hiên
Kiểng trồng trăm loại, xuân riêng bốn mùa
Qua cơn mưa đẩy gió đùa
Chuyện về quê cũ khá tua đợi ngày”


2B- Trở Lại Huỳnh Sa

Nâu sòng mùi bén sắn khoai
Ngày đi thắm thoát đã ngoài ba trăng
Gió đưa liễu yếu mai oằn
Ngổn ngang núi chận, trắng ngần mây đi
Hồn nương bến mộng phân kỳ
Nơi chôn nhau rún, biết gì thân sương
Thái hàng, mưa ám ngăn đường
Mồi da bạc tóc muôn ngàn thương mong
Huỳnh Sa nắng héo cội thung
Bơ vơ sương bụi, lạnh lung khói hương
Dọc ngang cung kiếm mười phương
Trường văn trận bút đâu nhường cho ai
Bó tay khom gối đi đày
Gà què ăn quẩn cối xay lần quần
Sư già lầm lũi một thân
Non xa tầm thuốc trót gần tuần qua
Đìu hiu lẻ bóng vào ra
Vọng đều mõ sớm ngân nga chuông chiều
Dưng hoa cúng trái chắt chiu
Công phu thí thực mọi điều thay sư
Song thưa hắt ánh nguyệt mờ
Mài nghiên mực cũ, giở tờ sách xưa
Giấc hồ - Khép cánh bụi mưa
Hương thoang thoảng nụ, gió lờ lững qua
Trầm thơm khói tỏa la đà
Nến soi chữ nghĩa nở hoa thánh hiền
Ngát mùi lan cúc sân hiên
Nhành giao ngọn lợp nghiêng nghiêng gương lồng
Khẳng khiu thân thẳng cội tong
Lá dầu lửa hạ mưa đông xanh rì
Nhớ từ mẫu đọc kinh thi
Thấy trong linh cảm sự chi khác thường
Khêu đèn soi rạng quyển vàng
Có gì cồm cộm gò làn giấy trơ
Phong thơ nét mực chữ mờ
Rành rành nét bút còn lưa đây rồi
Cố ngăn mà lệ cứ rơi
Mơ hình tưởng dáng nghe lời di ngôn
Hoa tiên gởi tấm lòng son
Mây che bóng hạc tiếng còn thoảng lâu

Thơ rằng:

Thiên Bảo, năm thứ …..
Giác Hải hiền huynh nhã giám

Từ độ:

Anh em cầm tay chia biệt
Bạn bè nuối mắt phân kỳ
Liễu rũ đôi bờ, ai đi phương nấy
Mây giăng muôn lối, kẻ ngóng chốn nầy
Uống cạn mấy bầu rượu cúc, luyến lưu mây
ngự đảnh Huỳnh Mai - Nhấp ngon đôi chén
trà lan, ngậm ngùi trăng mờ dòng Xích Bích

Không hẹn mà nên cuộc tao phùng, dủng đỉnh
Gành Nam chèo quế - Sẳn duyên thì có ngày hội
ngộ, thung thăng bãi Bắc thuyền lan
Ráng ửng chiều hôm – Khói mờ cây sớm
Lời khí tiết in hằn nét bút – Nghĩa kim lan ghi đậm
tấc son
Lần tay bấm đốt, lòng lại nhủ lòng
Tính tháng đếm ngày, mặt chưa tạn mặt
Kỷ niệm quẩn quanh gan tấc
Mộng hồn vương vấn canh gà

Nhớ xưa:

Chừa vá trái đào – Mài nghiên viện sách
Lòng non dại ước cá ròng đổi dạng, cửa Võ
Nên công - Tuổi thơ ngây đè sóng gió giong
buồm trường văn khởi nghiệp
Biển thẳm muôn trùng nào phỉ chí, kình nạc
Giương vi - Trời cao ngàn trượng chửa thỏa
Lòng, hạc hồng sải cánh
Chung bóng tập tành – Châu đầu rèn luyện

Khi lớn lên:

Ven mây bắn nhạn trả nợ hiếu trung
Biên ải trừ hung, giúp dân no ấm

Thế rồi:

Vật đổi trời Nam – Sao dời cung Bắc

Nay hiền huynh:

Biết lẽ hợp tan – Rõ tuồng suy thạnh
Gót ẩn sĩ không vấy màu bụi bẩn, nước khe
Rau núi tám tiết thong dong – Lòng cao tăng
Nào hoen sắc bùn nhơ, chuông sớm kinh chiều
Tư mùa thanh thản
Giếng trong vằng vặc trăng đầy
Trúc biết làu làu lóng thẳng

Còn tiểu đệ:

Bày tỏ khúc nôi thẹn mặt
Phân trần nguồn cội ngại lời
Chẳng phải đắm mê danh lợi mà lặn hụp
Vũng hẹp vinh hoa – Không gì tham luyến
đảnh chung mà vui đùa ao nông sĩ hoạn

Đó chẳng qua là:

Lòng lo dân chưa vẹn
Niềm thương nước chưa tròn

Giựt mình nghĩ lại:

Trán lỏng gối mòn – Chí cùn trí lụt

Thôi thì:

Liều nhắm mắt theo cơn lốc dữ
Dại xuôi dòng dấn bước đường mê
Nơi gác phụng thèm dấu hài Huỳnh Thạch
Chốn cửa viên mơ khóm liễu Đào Tiềm

Song ngặt vì:

Nước non nặc mùi binh lửa
Rẫy nương đẫ máu gươm đao

Có việc này xin thưa:

Dạ những ước thầm - Lời chưa trút cạn
Cõi quân lữ cận kề hổ tướng, vợ chồng
Tôi còn lại một trai - Cửa song hồ mài
miệt bút nghiên, tuổi tác nó vừa tròn
đôi chin
Bác Lãng giương ngọn chùy trí mạng, xe
Tần Vương hăm hở đập tan – Tinh Vệ ngậm đá
sỏi quên thân, biển Đông Hải lăm le lấp cạn
Thuyền con sóng cả, ai dám liều lĩnh cầm
Lái ra khơi – Tài thấp sức hèn, ai lại ngông
cuồng going cương xông trận

Hơn nữa:

Đạo dân nước muôn vàn hệ trọng. tài Phạm
Tăng khó dụng nghiệp Sở bang - Nợ kiếm cung
lắm nỗi đa đoan, mưu Bàng Thống khó vượt
truông Lạc Phụng

Dám xin hiền huynh:

Ban oai đức góp tay rèn trẻ, nên tôi hiền
Giúp nước phò vua - Dạy binh cơ điều tướng
cầm quân, rành mưu giỏi an dân dẹp loạn
Ngàn vàng khôn đổi, nghĩa nặng ơn sâu
Muôn thuở khó quên, tình nồng đức trọng
Dầu da ngựa bọc thây, dầu đường gươm nát mạng

Thiên Lương nầy vẫn:

Làm Tử Kỳ nhớ đức độ Bá Nha
Làm Bảo Thúc khắc ân tình Quản Trọng

Kính mong vậy thay
Châu Thiên Lương cẩn chí.

Nhịp thời gian chảy xuôi mau
Giang hồ chán bước nghêu ngao núi rừng
Trăng ngà vằng vặc giữa lừng
Đá chai gót mỏi ngập ngừng về đây
Châu Thông đón tận lối ngoài
Nghẹn ngào giọt vắn giọt dài tuôn rơi
Rằng: “Thân tên lạc cung rơi
Thuyền cây sóng đuổi giữa vời linh đinh
Biển sâu đâm sấu chém kình
Đồng Quan Ngươn Soái vốn tình cha con
Lòng trung chăm chắm chẳng mòn
Gãy cờ giữa trận, gởi hồn Huỳnh Sa
Ghé đây chưa rõ tin nhà
Thầy cùng tiên phụ lại là đồng song
Bèo trôi gió giạt long đong
Kiếm lời giấu giếm để hòng tạm nương
Tình cờ bóng lẻ đêm sương
Khêu đèn đọc sách mới tường đục trong
Ơn người sâu tợ biển Đông
Rộng thương tha thứ, con lòng chẳng quên”
Sư rằng: “Hỉ xả làm nền
Bụi hồng phiền não , ơn trên hộ trì
Sen vàng mở đúc từ bi
Sắc không, chơn giả có gì khác đâu
Mấy tuần gần gũi với nhau
Tướng đi dáng đứng làm sao chẳng ngờ
Đương khi thất thế sa cơ
Cao bay xa chạy bơ vơ lánh nàn
Họ tên dẫu chửa rõ ràng
Liếc sơ diện mạo biết trang anh hùng
Tới nay con tỏ sự lòng
Cội khô ướm nẩy chồi bông khác gì
Đế kinh gặp cảnh hiểm nguy
Cẩm thành khó tránh vận thì gian nan
Lũ kên kên uống máu tràn
Trông tìm bạn cũ bặt khan tin hồng
Đầu cành quyên giục đêm ròng
Non càng ruột thắt, thơ phòng châu rơi
Tang thương nước đổi núi dời
Đất bằng ngập lũ, biển khơi hóa cồn
Thành tâm trọn đạo thần hôn
Theo thầy len lỏi truông mòn vượt qua
Nửa ngày chắc tới Huỳnh Sa
Đem theo lưng nước bầu hoa lên ngàn”
Gà rừng vọng nhắt râm ran
Trăng tà gác núi, tơ vàng vương cây
Lối mòn sương sũng canh chầy
Truông xa vắng vẻ, rừng dày thâm u
Tàn xanh, bụi rậm chim gù
Hương thơm dẫn lối, mây mù vướng chân
Nhắm sao xa, lội suối gần
Huỳnh Sa đồi cũ dò lần tới nơi
Tạnh mây cảnh sắc sáng ngời
Bông đùa giỡn gió, gió lay lắc nhành
Buông rèm lá mịn liễu xanh
Cội thông bóng ngả, thác gành nước reo
Lau già vàng úa buồn theo
Đất pha sỏi cuội dìu hiu một gò
Châu Thông bước đến bên mồ:
“Trời Tây sao rụng, trăng mờ nơi đây”
Hoa chưng, nhang thắp, trái bày
Nỗi niềm u uất một hai tự tình:
“Đôi ta xưa bóng với hình,
Ai cơn hoạn nạn lại đành bỏ sao?
Vẻ duyên tạo hóa hiểm sâu
Phút lìa đời chẳng thấy nhau một lần
Người vì nghĩa lớn nát thân
Còn ta bùn bụi bám chân sông hồ
Người lo gánh vác cơ đồ
Ta mong giải thoát, qua đò sông mê
Một đi đâu đã hẹn về
Ngắm trăng sương, nhớ chén thề mà thương
Hiền lành mắc phải tai ương
Ai xui đây đó âm dương cách vời
Đôi ta sanh chẳng gặp thời
Chí lăm luyện đá vá trời được đâu
Than ôi! Thỏ chết chồn rầu
Sụt sùi giọt thảm thâm bâu canh dài
Ghi tâm khắc dạ câu này
Gươm thiêng tuốt vỏ ra tài kình côn
Bạn vàng khắn khít keo sơn
Xin vì ai đáp tiếng đờn tri âm
Mưa cuồng gió loạn tối sầm
Hươi thương thúc ngựa sanh cầm Yên binh
Nhận làm nghĩa tử minh linh
Dưỡng nuôi dạy trẻ sử kinh từ rày
Đợi thời, cuốc nguyệt cày mây
Tóc bay gió lộng bầu nai bạn tong
Bàn Khê, cần trúc ven dòng
Tỉnh say hồn bướm gởi lòng Kỳ Sơn
Nắng chan bạc mảnh áo đơn
Đầu trần lửa đổ đâu sờn chí cao
Sợ gì bắt cọp hang sâu
Kiếm vung, quỉ quái đoạn đầu đoành khơi
Thương dân là thuận ý trời
Giáo đâm giặc dữ, tay dời đẩu tinh
Giập tan giông bão đao binh
Cấy mùa lúa mới, ấm tình đất xưa”
Im hơi, thôn thở khói mờ
Mong manh gió gợn, vàng mơ ráng chiều
Nằm dài cây đổ bóng xiêu
Thác ngàn tiếng vọng, lối tiều cỏ đan
Huỳnh hôn len nhịp thời gian
Quyện nhau chậm rãi tỏa lan mọi miền

2C- Trao Truyền Võ Nghệ

Trăng liềm vòm lá chiếu xiên
Lờ mờ trãng cỏ, mây biền biệt bay
Đèn nhang hương án kíp bày
Lạy thần tạ lễ công dày võ môn
Đỉnh trầm hơi ngát khói tuôn
Đài sen nến rạng, giọt luồn chảy quanh
“Bẻ tên thề tấc lòng thành
Gìn lời giao phó vẹn tình sắt son
Điều tàn tám cõi nước non
Trong lòng gươm giáo, mất còn: Người, Ta
Thề xưa chứng có trăng già
Quyết truyền con trẻ nghiệp nhà kinh luân
Cước quyền miếng mọn phòng thân
Trận đồ biến hóa mười phần công phu
Điều hòa uyển chuyển cương nhu
Kê vai gánh vác cơ đồ ngửa nghiêng
Hiếu trung khắc một lời nguyền
Luyện nghề cung kiếm giữ yên quê nhà
Phơi gan trải mật sức già
Những mong chồi mọn trổ hoa kịp thời”
Rằng: “Con nương náu đúng nơi
Đêm đông lạnh lẽo đã dời sang Xuân
Cúi đầu cảm đội thâm ân
Những lời gia huấn mười phần ghi tâm”
Rằng: “Cân nhắc kỹ chớ lầm
Tính suy mực thước khi cầm ba quân
Luyện rèn thao lược cho thuần
Vùng nào trận nấy, con đừng lãng quên
Được thua, lấy đức làm nền
Xót người số vắn dựng nên thành dài
Kiếm vung che kín trong ngoài
Đối đầu cung nỏ, tên bay khó vào
Mưa dầm, nước mới thấm sâu
Vuốt ưng tay khỉ dượt lâu mới nhuần
Trụ như ngọn đảnh Côn Luân
Đi như bão cuốn sóng thần biển xa
Đá, thoi hiệu quả chẳng qua
Bộ, thân, cước, chỉ, thủ là cơ nguyên
Con nên trọng thể hơn quyền
Tùy cơ ứng biến mới nên tay già
Nhược bằng ham múa mỹ hoa
Mua vui trẻ nít chẳng ra trò gì
Tới lui ảnh hoán hình di
Mau như lá rụng, lanh bì tên bay
Lẹ làng dai dẽo chơn tay
Mười hai thế đá không sai tơ hào
Giữ gìn là sách lược cao
Bàng Long cước giải địch bao giáp vòng
Gậy tre đuôi cọp chạy cong
Khăn đầu nắm chắc để hòng thoát nguy
Dưới làu thế đất chi li
Trên rành thiên tương, các vì đẩu tinh
Rạch ròi kỳ chánh phân minh
Đánh đồn lượng sức, giữ thành mưu cơ
Thủy, sơn, địa chiến, ngày giờ
Lũy dinh Lý Tịnh - Trận đồ Ngọa Long
Sớm trưa sách vở nằm lòng
Văn ôn võ luyện cho thông mọi đường
Ngoắt tay, sấm động ngàn phương
Rồng phun bão lửa, hổ giương móng ngà
Lấy can qua dẹp can qua
Cứu dân thoát ách máu hòa thây phơi
Theo lòng người, thuận mạng trời
Hoa thêu gấm dệt đời đời nước non

2D- Trở Lại Trường An

Sân thông hứng cảnh trăng tròn
Bầu nghiêng rượu cúc, giọng dòn ca ngâm
Trời trong xanh, cỏ sương dầm
Cây mù ngọn quạnh, thác gầm lũng xa
Chuyện trò môi ấm hương trà
Châu xin một chuyến dạo qua đô kỳ
Liếc xem thần thái tiểu nhi
Trầm ngâm bấm đốt can chi một hồi
“Vận con còn lắm lôi thôi
Nếu như rạng sáng diễn khơi kinh thành
Mãng xà trong bộng nằm khoanh
Tháng giêng sát chủ rành rành chẳng sai
Phải chờ gà gáy khuya mai
Xét trong tám cửa, môn khai lên đàng”
Đến ngày nai nịch gọn gang
Củi khô nặng gánh băng ngàn bước mau
Nắng chan rát phỏng trên đầu
Mồ hôi muối bạc áo nâu vai sờn
Màn đêm buông phủ chập chờn
Mong manh vải mỏng lạnh rờn rợn da
Khói vương mặt đất là là
Nghiêng vai góc phố tạm qua đêm này
Tỉnh mê hồn bướm giấc mai
Đèn leo lét đóm thôn ngoài lim dim
Lặng trang cây cỏ im lìm
Mây trời vần vũ, người thêm não lòng
Sao lần lợt sắt trời Đông
Chi di chuyền hót, ráng hồng ửng lên
Vật, người hổn độn chợ phiên
Xe quan bụi hốt, ngựa biền trốt bay
Xô bồ tòa rộng dãy dài
Đưa chơn theo lớp sóng người vô trong
Ngũ Lăng thanh lịch cạn dòng
Xác xơ lều lá sạch không quán hàng
Phèng la mãi võ ầm vang
Thượng vàng hạ cám bày hàng giáo khiên
Âu sầu bó gối mái hiên
Co ro gió lạnh vài tên ăn mày
Thị thiềng hoang phí ăn xài
Ngàn trùng cách biệt đất dài trời xa
Xọp ve bụng trống đêm qua
Miếng ăn chợ lạ biết là tìm đâu
Một già áo bạc quần nâu
Cong tôm manh chiếu, gối đầu cánh tay
Mới đây lảnh án đi đày
Bồng con dắt vợ ra ngoài rừng thiêng
Nghiệp chung dẫn lối sầu riêng
Mòn tay cuốc đất đào tiền nuôi thân
Sơn lam chướng khí hai lần
Cướp đôi trẻ dại - Bạc phần thương ôi
Ở về? – Khó đứng khôn ngồi
Trao thân beo cọp? Tái hồi quê xưa?
Của tiền giặc vét chẳng chừa
Túm đùm nương náu nắng mưa chái ngoài
Trát đòi gia quyến hôm nay
Hành trang khăn gói nội ngày rời kinh
Mới mờ mờ đất bình minh
Kẻ đao, người gậy quân binh rộn rang
Nhận đầu lão chiếc già giang
Quất roi kéo xễ, lạy van được nào
Rằng: “Xin mở lượng trời cao
Thương thân hèn mọn dãi dầu đắng cay
Vợ nhà bịnh ngặt nằm dài
Tiền nong đâu có rước thầy thuốc thang
Hai con nhỏ dại cơ hàn
Món thừa canh cặn quán hàng hảo tâm
Tơ đồng mượn giọng ngũ âm
Đờn rong hát dạo mong cầm tấc hơi
Phố phường chợ búa đông người
Nắn cung so phím lựa lời ca ngâm
Lưng cơm nước mắt chan dầm
Sớm xin bố thí, tối nằm mái hiên”
Hét rằng: “Phép tắc cửa quyền
Cầm cân chẳng vi, không thiên chút nào
Lẽ ra làm quỉ cụt đầu
Hoặc đày trọn kiếp ngựa trâu bọn mầy
Lớn gan lẽo lự đặt bày
Trưa nay căng nọc, sớm mai vô rừng”
Đòn thù đá bụng thoi lưng
Đầu gông ngả úp, mắt trừng tay xuôi
Ôm thây bà vợ sụt sùi:
“ Mất còn thoắt đã tách rời đôi phang
Gởi thân hùm sấu sài lang
Mẹ con côi cút tấc đàng rủi may
Ức oan chi bấy cao dầy
Lết la sống mọn tháng ngày nổi trôi
Phận bèo phó mặc sóng nhồi
Linh đinh bờ bến phương trười nào đây?”
Thở than lời vắn tình dài
Kẻ qua đường cũng châu mày lệ sa
Lá chằm nát gói qua loa
Nương hoang bươi huyệt đem ra chôn vùi
Khăn tang quấn trán ba người
Mang xiềng lảnh án lưu dời bữa sau
Đám đông bu kín giờ lâu
Sai nha lính lệ giải hầu quan trên
Mắng rằng: “Thằng giặc đê hèn
Cứng đầu ương ngạnh tội đền mới xong
Bọn bây quần kiến tụ ong
Rắp tâm làm phản a tòng đứa gian
Châu Thông bị giải theo đoàn
Giữa đường tật ách vương mang nào ngờ
Ồn ào lộn xộn hàng giờ
Đứng ngồi nóng ruột, ngóng chờ vào sân
Nghinh ngang lính tráng lưng trần
Mắt hừng hực lửa, tay phần phật roi
Chòi canh ậo ọe thét còi
Giọng loa khó dễ, nặng lời chanh chua
Giáo xô, khiên đẩy tay đùa
Người vô tội, kẻ già nua đi cùng
Ngả nghiêng cờ lọng lụa hồng
Cai tù, chúa ngục đặc trong chật ngoài
Tay chơn bộ hạ hang hai
Hét hò vẹt lối quan lai công đường
Khí trời ngột ngạt khác thường
Rào ngăn vách cản lũy tường vượt cao
Hỏi dò cật vấn từng câu
Vo tròn bóp méo chận đầu lung tung
Gạn tra vụn vặt lòng vòng
Ai ai cũng thấy phập phòng đâu yên
Chữ rằng: “Mọi sự do tiền”
Lịnh đòi bước tới cửa quyền khó thay
Dẫu cho dạ thẳng lòng ngay
Không tù cũng tội, rủi may khó dời
Bọn quan làm đất làm trời
Buộc ràng bắt bẻ cho lòi bạc ra
Luật ban chẳng kể trẻ già
Giần nhừ mười trượng, phạt ba trăm tiền
Mò lưng, chẳng đủ nạp liền
Tống giam ngục tối, chơn xiềng cổ gong
Hầu bao lép xẹp sạch không
Bán buôn chăt mót, gánh gồng gian nan
Đánh mùi biết mối giàu sang
Nặng tay tra tấn – Đòi vàng cũng ưng
Mới cung, buộc tội phải xưng
Gớm ghê thay! Luật sói rừng kên kên
Tay còng, Châu ngước trông lên
Thấy đầu chó sói xâm trên ngực trần
Mấy tên tiểu tốt đứng gần
Bắp cơ cuộn khúc, đường gân nổi vồng
Quấn trùm hạ bộ che mông
Da dê vận khố, búa đồng cầm tay
Sói đương hung hãn ra oai
Nhăn răng nanh nhọn khoe tài hùng anh
Mặt mo giở giọng lôi đình:
“Thầy chùa sao lại đành hanh việc người?
Đã mang tiếng đoạn tình đời
Lại xen thế tục, xỏ nơi gian tà
Tên ăn mày chẳng ruột rà
Đậu tiền chôn cất nghĩa là làm sao?”
Nhớ lời thầy dặn đã lâu
Cắn răng nhịn nhục ngỏ hầu thoát nguy
Rằng: Từ thọ giới sa di
Học câu hỉ xả, từ bi nằm lòng
Củi rừng gánh bán chợ đông
Thấy người hoạn nạn đem lòng tương liên
Đồng rơi, xu rụng góp quyên
Những mong vơi bớt ưu phiền chúng sanh
Lửa thù tròng mắt long lanh:
“Biết gì thằng giặc hôi tanh ăn mày
Trước kia trấn ải Hình đài
Giết quân chém tướng tội nầy khó tha
Tới khi thất thủ trào ca
Cải trang hành khất lân la xóm giềng
Khổ saiđày miệt Tứ Xuyên
Lộn nài bẻ ống về liền trường An
Sờ sờ chống lịnh bổn quan
Manh tâm tụ đảng hợp đoàn dấy binh
Thưa rằng: “Gã nọ cùng đinh
Tay không tấc sắt tranh hành với ai
Đói nghèo áo vải quần gai
Tiền cho vung ném, hiên ngoài tạm dung
Cầm ca bến bãi vàm sông
Cơm thiu canh lạnh sống cùng thê nhi
Gây chi sóng gió bất kỳ
Đá đè búa nện còn gì xác thân
Tội kia dẫu nặng ngàn cân
Cũng chưa đến nỗi gánh phần tử vong
Thương tâm ai chẳng động lòng
Giúp người khốn khó nằm trong luân thường
Bần tăng khách lạ tha phương
Xót người phận mỏng chưa tường đầu đuôi”
Mắng rằng: “Sâu bọ lằng ruồi
Bu thây sình thúi, tưởng mùi thơm tho
Chống trời bằng nạn – Gan to
Già mồm lẽo mép quanh co gian tà
Kíp căng dùi nọc roi da
Đập cho bò lết, giam nhà lãnh lao
Cãi chày cãi cối ồn ào
Khố te, áo tét tưởng cao bằng trời”
Trọc trằn đoạn thảm đầy vơi
Lạ chưa! Họa giỡn tai chơi giữa đàng
Tréo tròng nạn ách vương mang
Đè đầu chụp tội – Quân gian khéo bày
Đau như dần, mỏi cả vai
Nhìn ra sương đục, mây cài liềm trăng
Cây mờ, lợt lạt bóng ngân
Chồi lan nụ hé, bãi tần hương xông
Quẩn quanh trong đám bụi hồng
Nhục vinh sướng cực do lòng nghĩ thôi
Vứt đi! Đeo đẳng chi đời
Cởi gông phiền não thảnh thơi tâm hồn
Đục trong, thua được mất còn
Coi như nắng tắt đầu non chiều tàn
Ngày kia, sương lạnh chưa tan
Nhà tù thức giấc, tán bàn xôn xao
Khóa khua lách cách đề lao
Có viên ngục tốt cúi đầu thưa qua”
“Tiểu binh vâng lịnh đại gia
Mời người dời gót ngọc qua thơ phòng”
Lối đi mát rượi lụa hồng
Thơm lừng trà cúc, rộ bong mai đình
Cửa to mở quát tiếp nghinh
Trầm bay phưởng phất, quyện mành khói vương
Lung linh lệ sáp nến hường
Huyện quan ngồi giữa ghế trường kỷ cao
Đôn ngà bọc gấm hoa đào
Có người khách lạ tóc màu sương pha
Thời gian chậm chạp trôi qua
Ngại ngần quan huyện phân ra mấy lời:
“Sai nha làm chuyện lôi thôi
Hiếp dân vô tội, bắt người hiền lương
Đêm qua viên ngoại họ Vương
Thăm chơi tệ phủ mới tường gian ngay
Nghe cao tăng với người đây
Vốn cành cùng cội chung cây - họ hàng
Còn thơ, nương náu đạo vàng
Bịt tai chuyện thế, dẹp tan lụy phiền
Mười năm giũ sạch nghiệp duyên
Bụi hồng chẳng ố gót tiên một đời
Ngày lành phố chợ ghé chơi
Quân hầu có mắt không ngươi mới lầm”
Vương viên ngoại dáng trầm ngâm:
“Việc qua xin gác, bận tâm ích gì
Mấy năm chú cháu phân ly
Buồm căng gió thuận, mây đi lại gần
Gặp nhau thơ thới tinh thần
Nhành khô mưa gội, trắng ngần điểm hoa
Nhạn Nam én bắc một nhà
Ơn dầy ban xuống, lòng già dám quên!”
Châu Thông nhìn thấy dáng quen
Tướng đi giọng nói, sực liền nhớ ra
Giáo đầu tập luyện binh gia
Kiếm côn khiếp chúng, tài hoa hơn người
Cáo từ viên ngoại phản hồi
Ký tờ bảo lảnh Châu rời dinh trung
Cỗ xe tứ mã thẳng giong
Cây ngàn chìm lớp bụi hồng dặm mai
Kẻ ăn người ở đông vầy
Gò cương đẩy cửa thơ trai tự tình
Một trời liễu biếc trúc xinh
Tiệc hoa dọn sẵn vườn quỳnh hiên trăng
Ân cần mời mọc đãi đằng
Giũ đi thôi! Lớp phong trần lâu nay
“Từ hồi lửa hốt tro bay
Lang thang biển nọ song này linh đinh
Nẻo đời mòn gót chông chinh
Vùi chôn gươm báu, tập tành bán buôn
Bạn bè bạc vạn tiền muôn
Giúp giùm vốn liếng lách luồn kinh dinh
Của chìm của nổi dụm dành
Bỏ ra mua đứt tướng khanh đương quyền
Lạ gì bầy ngốc tham tiền
Bạc vàng tram miệng, xích xiềng tháo bung
Mấy hôm thằng cháu Vương Hùng
Cho hay công tử mắc vòng ngục lao
Ra tay nào sợ tốn hao
Sợ đày ải chốn rừng sâu núi dài
Lê thê tháng lụn ngày chầy
Lộ ra lai lịch dạ nầy sao yên
Chữ rằng gặp biến tòng quyền
Đút lo chạy chọt, chích nghiêng công bằng
Đồng tiền giữ thế vạn năng
Thay đen đổi trắng lẽ hằng xưa nay
Dầu cho chớp giựt mưa bay
Bén hơi đồng cũng mê say thẩn thờ”
Vườn khuya vương vất hương mơ
Trắng bong bưởi rụng, song mờ sương lan
Chòm sau xóm trước lạnh tràn
Gió day phơn phớt mấy hàng ba tiêu
Ngủ lim dim cảnh đìu hiu
Vẳng đưa quốc gọi ít nhiều thôn xa
Hiên mai đôi bóng trẻ già
Tâm tình chưa cạn trống đà điểm tư
Nhét vào tay áo tờ thư
Hỏi thăm Giác Hải Thiền Sư đôi dòng
Kề tai nhủ hết sự lòng
Tóc tơ dặn bảo Châu Thông mọi đường
“Kíp mau lướt bụi bămh sương
Kẻo am mây vẫn chưa tường rủi may
Ngóng tin nhạn lẻ dặm dài
Liềm trăng ba điểm sao cài thương mong
Vận thời chưa lúc hanh thông
Nên dò sâu cạn, nên phòng trước sau
Sẵn đây chút đỉnh vải nâu
Áo thô, quần xấu biết đâu sẽ cần
Tiền nong ít ỏi hộ thân
Giắt lưng dằn túi theo chân giang hồ
Hẹn ngày núi lở sông khô
Nước non đứng dậy, cơ đồ vẻ vang
Vẹn lời nguyền mát tim gan
Thuồng luồng giẫy chết máu tràn biển Đông
Mây cao nghiêng trải cánh hồng
Dưới trời thỏa chí tang bồng - Gặp nhau
Dùng dằng chia biệt giọt sầu
Vẫy tay nhau khuất bờ dâu mới về
Chưa phân loại
Uncategorized