Đồi Mai Vùi Kiếm (2a)

Tác giả: Bùi Thanh Kiên

2E- Về Chùa Lập Thế Trận

Vực sâu dốc vịnh mải mê
Rách hông giày cũ chơn tê tái chồn
Ô mây rũ bức hoàng hôn
Khói vờn lũng xám sơn thôn nắng tà
Sắc phai lá lục cây già
Xóm xa leo lét trổ hoa đèn vàng
Chùa xưa mây ngủ mê man
Ngân nga chuông muộn mơ màng trong không
Bước dồn lòng rộn rã lòng
Dạo qua thăm mấy cội tòng xanh xanh
Lắc lay hắt bóng mành mành
Chuỗi lần, mắt khép tụng kinh Đại Thừa
Vén rèm đẩy cánh phên thưa
Hầu thăm sư phụ gió trưa nắng chiều
Hương trà ấm khói hậu liêu
Ngọt bùi ấm lạnh muôn điều xãy ra
Trình rằng: “Giặc cướp trào ca
Giả nhân giả nghĩa chẳng qua tham tàn
Lưỡi trâu miệng méo một đoàn
Tài sơ ôm mông gác vàng đảnh chung
Tin loan chánh sự rối bồng
Tên An Khánh Sự lộn sòng giết cha
Chín châu mười quận kêu la
Tiếng than dậy đất, oán pha ngất trời
Chim mèo, cú vọ nơi nơi
Giựt tiền đoạt của, giết người hiền lương
Thịt xôi náo loạn hí trường
Gươm thay lẽ phải coi thường người dân
Vận cơ ắt đã kề gần
Thiên thời địa lợi cộng nhân tâm nầy
Mưa giông nào trọn một này
Bốn phương hào kiệt sắp bày giáp nhung
Chuyển xoay đất lở trời long
Cọp mài nhọn móng tranh hùng một phen
Túc Tôn về ngự Bành Nguyên
Tử Nghi thống lảnh binh quyền đặc sai
Năm nay Chí Đức thứ hai
Ra oai chinh phạt định ngày hồi loan”
Sư rằng: “Chuyện giặc Khiết Đan
Xe tù áp giải qua ngang Vân Đài
Ra tay mới rõ cao tay
Nghỉ ngơi lại sức – Ngày mai đồng hành
Hơi tàn còn phút mong manh
Cũng liều hết sức bình sanh cứu nàn”
Chóp cây cao ửng nắng lan
Hoa tươi bướm ghẹo, mây vàng gió đưa
Lau già úa sắc lưa thưa
In nghiêng vóc dáng buồn xưa lưng đèo
Chơn lần đá nhọn cành eo
Khói lam thức giấc thôn nghèo xa xôi
Núi đồi dứt, nối núi đồi
Ngoằn ngoèo núi hẹp non cơi hai hang
Đường biên chật ních cây đan
Đồi thông gió hú thác ngàn nước reo
Bên khe dựng tạm mái lều
Che mưa đỡ gió sớm chiều có nhau
Dang lưng làm mấy này thâu
Diễn đi tập lại cho làu mới ưng
Đêm đêm dụi lửa canh chừng
Lóng tai động tĩnh mấy lần cành rơi
Sáng lòe sương chiếu mặt trời
Nước khe cơm ống mới rồi bữa mai
Tù và lảnh lót thôn ngoài
Ngọn cây nom rõ một bầy Phiên man
Xét xem vật dụng sẵn sang
Im hơi hố kín lợp ngang lá rừng
Vài tên dáo dác canh chừng
Gần nom xa ngóng ngập ngừng đường hoa
Giờ lâu tháo bước lộn ra
Rồi quân binh rộn rịp qua cầu sài
Vật người leo dốc Vân Đài
Uốn lưng mãmh hổ, vươn dài giao long
Mấy tên lính bộ sau cùng
Bước ngang chửa khỏi một vòng cầu xây
Ụp nghiêng cả bọn lăn quay
Hố sâu vùi xác, cọc dài xiên thân
Sườn non sấm chuyển rần rần
Muôn cây súc nặng ngàn cân ép dồn
Quân Yên tan mật nát hồn
Quày lưng chạy ngược bồn chồn đạp nhau
Điểm tra sĩ tốt lúc đầu
Mười phần hao bảy chuyện sao lạ lùng
Ngất cao mây ngự mấy trùng
Khe sâu hun hút đùng đùng nước sôi
Đường đi khó quá lên trời
Chim ngàn xếp cánh chẳng tài vượt truông
Viên đầu lãnh sợ cuống cuồng
Rối nùi khó gở được nguồn tơ ra
Lẹ như chim cắt xớt gà
Lá rơi đầu gió sao sa lưng trời
Châu Thông áo bạc quần gai
Hét dài tiếng vọng núi ngoài đồi trong
“Sức trâu có chem. được rồng,
Dấn thân đất chết đừng trông thoát nàn
Chiến trường nợ máu trót mang
Khó chui nhủi trốn tìm đàng uổng công!”
Nhẹ như gió thoảng nhành thong
Phi tiêu bay vụt từ lòng bàn tay
Trúng thương ngả gục cả hai
Phụt đôi vòi máu giữa ngay yết hầu
“Còn ngươi thủng thỉnh tính sau
Nếm cho trải vị sơn hào nhà ta!”
Bỏ yên - Ngựa vọt chạy xa
Viên đầu lãnh tuốt kiếm ra sáng ngời
Nhìn Châu chằm chặp chẳng rời
Mày cau hực lửa, nhếch môi cười gằn
Châu Thông bình tĩnh mười phần
Vận toàn sức mạnh tinh thần giáp công
Giỡn đùa lượn múa hai rồng
Lại qua chín hiệp cầm đồng kiếm côn
Gồng tay, máu nóng chuyền dồn
Nhón chân, Châu nhãy lượn tròn trên cao
Quay côn nhắm thẳng đỉnh đầu
Gầm lên một tiếng giáng vào tam tinh
Tướng Yên vùng vẫn tung hoành
Nghiêng vai né khỏi lách mình tràn qua
Ướm chừng thanh thảo lạc hoa
Lia thanh trường kiếm quét ra một vòng.
Châu Thông vốn đã dự phòng
Côn quay vun vút mảy lông khó vào
Trang dũng sĩ, khách anh hào
Hai dòng thác lũ cuộn trào sườn non
Kiếm ngân sang sảng chạm côn
Côn đùa vùn vụt đở đòn dưới trên
Giá côn nhẩy trái hét rền
Đốc roi nhắm huyệt Liêm Tuyền tạt ngang
Tướng Yên lui tới lẹ làng
Tránh gươm kiếm chận gạt đường côn qua
Kiếm hươi chém. phập côn ngà
Kéo trì hai gã sút ra được nào
Châu Thông trí sáng kế cao
Co chân gót trái đạp vào Quan Nguyên
Tay côn xoay vặn liền liền
Cương đao phạt mộc chém xiên Ấn Đường
Phát chiêu tinh luyện lạ thường
Làn tơ kẽ tóc, diểm dờng không sai
Tướng Yên, binh sĩ rời tay
Thuận đà, Châu đá kiếm bay xuống gành
Rút Long Toàn lóe thép xanh
Cả cười: “Cái chết hẳn dành cho ngươi
Sợ e miệng thế nhiều lời
Đường đường danh tướng giết người tay không
Được thua một cuộc tranh hùng
Thấp cao một trận Mai Thung bên nầy
Cho ngươi lăn lóc đọa đày
Trò mèn giỡn chuột kéo dài thương đau!”
Phóng mình vận khí nhảy vào
Rập ràng kẻ trước người sau đối đầu
Châu Thông chấp chỉ khô lâu
Đứng Kim Kê Tấn khấu đầuphương Đông
Hiệp tiên, Yên tướng khắc bông
Long thăng hổ giáng hợp đồng chơn tay
Nghịch lân cước giải nguy ngay
Châu tràn gạt đở phát hai đòn liền
Chưởng vung đất lở trời nghiêng
Bước theo chin bộ thẳng xiên thưa dày
Cứng mềm uyển chuyển đôi tay
Phụng hoàng sè cánh che mây rừng tong
Tướng Yên lừa thế phản công
Loạn điên cuồn cuộn trốt lồng qua đê
Mắt và chớn thủy nhứt tề
Giương đôi song chỉ xỉa về như tên
Nhắm ngay hạ bộ thốc lên
Vung hông tả cước điểm liền đúng nơi
Sá gì ngón mọn đồ chơi
Dễ đâu thua thắng đổi dời mà mong
Bình Lâm Hạc Lập dụng công
Nhẹ nhàng hóa giải thoát vòng hiểm nguy
Tràn ngang bắt ngón tức thì
Lòn qua nhắm huyệt phong trì chém sâu
Độc chiêu phải dốc kế mầu
Đà đao trá bại ngỏ hầu nên công
Giả đò khí huyết chẳng thong
Dáng như thở gấp đứng không vững vàng
Tướng Yên vung chưởng phạt ngang
Nhón chơn trảo mã bước tràn phát chiêu
Châu đà liệu trước mọi điều
Phất tay điểm mạnh hạ tiêu một quyền
Tướng Yên lùi bước lách nghiêng
Châu Thông tấn hữu bộ liền bên hông
Giương nanh cọp múa móng rồng
Gió điên xô đổ cội tong khó chi
Cạnh tay chem. thẳng Đại Chùy
Thuận đà thộp cổ kéo ghì ngả ngang
Thế tình đến quá vội vàng
Tướng Yên té ngửa trên giàng mai thung
“Khá khen tài bộ anh hung
Kiếm cung trăm hiệp cầm đồng bổn gia
Cước quyền gẫm cũng tay già
Khơi dòng kinh sử nếp nhà trâm anh
Lạ chưa? – Quì gối khom mình
Thờ tên dâm loạn ô danh muôn đời”
Rằng: “Suy thấu đáo kiếp người
Mất còn trời định, ấy lời ngàn xưa
Chiếc thân mảnh lá sa cơ
Rớt gươm giữa trận là giờ nát thân
Trước hồi phách lạc non thần
Ngọn nguồn cội rễ mười phân tỏ bày
Cố hương mưa tối bão ngày
Máu loang ngập rẫy, tro bay khắp đồng
Giặc đương chiếm cứ cả vùng
Lớp trai vô tội gánh gồng việc chung
Dồn vào thế bí nước cùng
Phải mang cung nỏ, buộc dùng giáo khiên
Lót vàng mua chữ bình yên
Không lo tiền của sung liền quân trung
Gió đưa lạc chốn bụi hồng
Mặc con sóng vỗ, mặc dòng nước đi
Ngàn dâu bóng xế ai bi
Sợ con nát giáp lấy gì gói thân
Mẹ già mái lạnh một thân
Đầu hiên vò võ trông lần tin con
Ngọt bùi chữ hiếu chưa tròn
Mây non Tần ngóng những mòn con ngươi
Miệng đời biếm nhẻ mấy mươi
Làm trai hổ đất thẹn trời bởi đâu
Trót vương mắc nợ máu đào
Ơn đền oán trả - Cơ mầu hóa công
Cớ chi dung trận Mai Thung
Giữa đường gặp gỡ giao phong, khá bày
Lời hay rót mật vào tai
Nỗi niềm trút cạn cảm hoài xiết bao
Hơn thua đã định thấp cao
Thương tài tiếc phận nỡ nào chẳng dung.
Chống gươm đầu óc rối tung
Giận hờn nghiệp chướng, đau lòng trái oan
Lấy ơn báo oán cho an
Kết chi cho rối tới ngàn kiếp sau
Cũng đồng hoạn nạn như nhau
Sân quê khuất nẻo đã hầu mấy trăng
Làng xưa thăm thẳm sầu giăng
Phủ trùm núi Dĩ mấy lần nước mây
Tình nầy dễ mấy riêng ai
Trói chung cảnh ngộ - Cao dày khéo trêu
Chạnh thương xóm nhỏ một chiều
Mắt lòa chân chậm tiêu điều mái hoang
Tin sương đâu đến ngỡ ngàng
Đứa con nhờ cậy chiến tràng gởi thây
Cheo leo đồi núi rậm cây
Xác phơi truông lạnh chim bầy rỉa ăn
Mũi lòng, tre cỗi khóc măng
Nghĩ thôi, Châu lại dùng dằng gươm buông
Dạy rằng: “Cám cảnh huyên đường
Đây tha cho, kíp hoàn lương cày bừa
Sớm hôm đạm bạc muối dưa
Cháo rau dền muống phụng thờ từ thân”.
Lau già gió ríu tiếng ngân
Nước xô đá dựng chim rừng líu lo
Ngàn hoa nội cỏ thơm tho
Hương trinh nguyên, nụ mấy giò lan xinh
Tiếp lời: “Chưa rõ tánh danh
Không đồng trang lứa, chẳng tình bút nghiên
Trời xui cá nước bén duyên
Bá Dương sương ấm, Tập Hiền trăng trong
Giấu chi tên họ Vu Đồng
Theo đòi cử nghiệp, nối dòng thơ hương
Kê vàng tỉnh mộng canh sương
Nhát gươm đoạn mạng sa trường vùi thân
Thong dong phủi sạch bụi trần
Non Đoài treo kiếm, sông Ngân rửa dòng
Cất cung lánh đục tìm trong
Thơ vương khói trúc, trăng lồng mành hoa”.
Tức thì nghiêm lịnh ban ra,
Truyền quân mở cửa tù xa ngay liền
Nặng nề lạch cạch xích xiềng
Hai người gầy yếu, gong riêng chung cùm
Bơ phờ cổ mỏi lưng khum
Oai phong đâm sấu bắt hùm còn đâu
Ngỡ là làm quỉ không đầu
Hay nằm ngục hẹp nếm sầu qua tay
Đời không quen ngự cõi ngoài
Ngày ngồi tù, tính ra dài trăm năm
Vây quanh, bóng tối âm thầm
Bên trời vạc lẻ, tiếng cầm canh thưa
Thềm rêu tí tách hột mưa
Vắt tay qua trán, thức thừa trắng canh
Ao vườn – Ngiêng bóng bong chanh
Tấc gang – Mình nỡ vô tình xót xa!
Hết lưu lạc lại chung nhà
Chồi mai năm cũ trổ hoa đúng tuần
Trời trong xanh, nắng trong ngần
Hạc giương cánh rộng ôm vừng mây cao
Châu rằng: “Bốn biển kết giao
Gót trần muôn nẻo, anh hào bốn phương
Đâu cần cùng sách chung trường
Cỏ bồng gió cuốn bước đường rủi may
Ta cùng với họ Vu đây
Đọ so đao kiếm vui vầy tình thân”.
Rụt rè Vu bước tới gần
Cúi đầu ra mắt tỏ phân sự tình
“Lúa vàng chở thẳng Yên Kinh
Giao anh em cứ mặc tình định phân”.
Châu rằng: “Máu tủy lê dân
Giặc kia quào hốt dành phần tư riêng
Sống quen giản dị cửa thiền
Ta không tham đắm những phiền lụy đâu
Chia cho lính tráng đều nhau
Làm tiền lộ phí quay đầu về ngay
Thôn làng mái ấm dựng xây
Hái rau bắt ốc tháng ngày náu nương
Chớ đem thân bỏ chiến trường
Đừng khơi sông máu núi xương thêm rày
Bao nhiêu da ngựa bọc thây
Gan vàng mạng bạc trận này vừa xong
Gót đầu phủ đắp lụa hồng
Sang hèn chẳng kể chôn cùng một nơi
Lúc còn dọc đất ngang trời
Ai phò chúa nấy, chuyện đời trớ trêu
Vô thường hồn quỉ réo kêu
Trút tàn hơi thở thảy đều như nhau
Liệm khâm chôn cất gò cao
Cắm bia vun núm, vẹn câu ân tình.
Mai kia tàn lụi lửa binh
Nắm xương cải tang di hình đất quê”
Vu Đồng cảm đức muôn bề
Dùng dằng chưa muốn dứt về cố hương
Châu rằng: “Sốt nắng lạnh sương
Mẫu từ giọt nhớ giọt thương từng giờ
Ruổi giong gặp gỡ ai ngờ,
Di Ngô, Bảo Thúc hẳn chờ một mai”.
Nắng nghiêng nghiêng đổ bóng dài
Đầu non bịn rịn chia hai lối đời
Ngập ngừng chiếc lá vàng rơi
Tơ mành theo gió – Phương trời nào đi?

2G- Cửa Thiền Sanh Biến

Đói no dầu dãi dặm trường
Ruổi mau dặm thẳng, gió nhường bước chân
Tới chùa, chưa cạn lời phân
Sư gìa bấm đốt, ngón lần can chi
“Cứ theo hình tướng mà suy
Sắc thần u ám, giao mi tối sầm
Đánh tay tám cửa chẳng lầm
Tử môn giờ Tý ngày rằm bữa nay
Mười phần rủi, một phần may
Kiếp người chắc gánh chịu nhiều gian nan
Quảy bầu xách gói hành trang
Đông Nam nhắm hướng lên đàng ruổi going
Thấy chùa bốc khói lửa hồng
Tiếng tru lang sói, mây lồng tàn tro
Là con mau cẳng lẹ giò
Cao bay xa chạy mặc cho phận thầy
Gốc tàn mong lá xanh cây
Sum sê chồi nụ đợi ngày đơm bông
Từ nay ghi khắc vào lòng
Bước ra cẩn thận, vào trong giữ gìn
Dao con giắt ngọn trong mình
Đội khăn đạo sĩ, thay hình lái buôn.”
Ôm chơn thầy, nước mắt tuôn,
“Trốn đi để lại cảnh buồn nào an
Xin cùng trải mật phơi gan
Dẫu cho khổ lụy muôn ngàn cũng ưng
Báo đền ơn nặng ba xuân
Công lao nuôi dạy chin từng mây xanh”
Sư rằng: “Ráng giữ lấy mình
Gánh gồng việc lớn mới đành dạ ta
Đeo mang tính nết đàn bà
Khóc than kể lể ắt sa lưới chồn
Vui sau, lo trước mới tròn
Nghe đây lời cuôi mới còn ngày mai
Cõi đời chướng mắt trái tai
Không cam nhịn nhục chắc hoài công danh
Mong manh một sợi tơ mành
Chiếc thân tứ đại, bèo gành mê tân
Bùn nhơ lem ố gót trần
Có không, không có, chớp lưng trời tà
Sáu mươi tuổi kể đã già
Lá vàng nguyền ủ ấp hoa đương thì
Tránh xa tai họa mau đi
Cáo bầy khó chọi – Ích gì cho ta
Lại thêm rắc rối khó mà
Biện minh việc cướp tù xa vừa rồi.”
Giọt buồn cay mắt mặn môi
Bóng thơ thẩn bóng lưng đồi trăng sao
Thoắt rồi giờ Sửu đêm sau
Quân binh đầy nẻo, xôn xao giáp vòng
Bầy vò vẽ, lũ bọ hung
Kích chong mâu chỉa vào trong Phật đài
Lăm lăm kiếm tuốt cầm tay
Đạp bung phên cửa, bủa vây thơ phòng
Sư già ngước mắt lên trông
Tướng Yên, mày xếch, dáng dong dải người
Da ngăm trạc phỏng bốn mươi
Râu rìa quay nói, mắt ngời hung quang
Hét hò, chỉ dọc trỏ ngang
Thò tay nắm cổ hỏi quàng hỏi xiên:
“Ẩn thân núp cảnh chùa chiền
Mưu ma chứa chấp một tên gian tà
Giả danh dựa bóng Di Đà
Giết quân, chem. tướng máu sa thây chồng
Cướp tù xa, đoạt của công
Ngoài mồm niệm Phật, trong lòng gươm đao”.
Sư già lặng lẽ cuối đầu
Rằng: “Lòng ngay thiệt dám đâu vạy tà
Rộng thương bãi cát Hằng Hà
Lượng trên bớt giận, nghe qua đôi lời
Xin truyền lục soát mọi nơi
Vạch tìm tung tích của người tình nghi
Bần tăng chịu án lăng trì
Luật vua phép nước dám gì kêu oan
Ví bằng chẳng có quân gian
Để cho đây được an toàn mạng căn!”
“Bày trò nói cuội nói trăng
Vòng vo Tam Quốc lằng nhằng đâu đâu”
Vẫy tay, quân sĩ ùa vào
Giở tung thiền viện, bới đào phòng trai
Lôi sư ra trước hiên ngoài
Oang oang xuống lịnh bày ngay cực hình
Roi da túi bụi vấn mình
Máu tuôn thịt nát mới đành chịu đi
Hất hàm giọng lưỡi khinh khi
“Nạp cho tội phạm tức thì lên quan
Điêu ngoa giữ thói ươn gàn
Bổn quan há để bình an chùa chiền”
Ồn ào tốc thẳng ra liền
Sư lim dim mắt tham thiền giữa sân
Dắn đo thôi lại cân phân
Bó tay chịu nhục cũng gần ngu si
Cờ cùng phải chịu nước đi
Bỏ mình theo nghĩa, oai nghi trận tiền
Thắp hương quì lạy khấn nguyền
“Con nay chưa dứt oan khiên cõi trần
Cây im gió lấn lướt lần
Ao sen tĩnh lặng, rần rần lửa sôi
Nhớ xưa phát nguyện trọn đời
Gởi thân cội phước, lánh nơi bụi hồng
Nương thuyền Bát Nhã một lòng
Dẹp ma Lục Dục, thoát vòng Vô Minh
Nặng nề nghiệp cõi phù sinh
Họa tai chờ chực bên mình biết đâu!
Ngửa trông Tam Bảo nhiệm mầu
Chứng con tu xuất, hồi đầu thế gian
Cà sa, y, bát, chuổi tràng
Rày xin trân trọng giao hoàn Phật Gia
Lòng thành niệm chữ Di Đà
Ban mười tịnh tấn độ qua cơ cầu”
Giọt rồng chậm chạp đên thâu
Xếp bằng nhắm mắt tới đầu canh tư
Hạ tuần trăng lợt màu tơ
Vấn vương song quạnh, lờ mờ sương bay
Chênh vênh đơn chiếc sao mai
Non Đông đậm bóng, chơn mây tỏa hồng
Chỉnh trang võ phục vừa xong
Dung nghi lẫm liệt, oai phong đường đường
Giắt sườn thép lạnh Can Tương,
Nhẹ nhàng nhón gót ngọn tường nhảy qua
Lù mù trông vắng hiện ra
Ngựa người rón rén dò la bước thầm
Núi rừng lặng tiếng trầm ngâm
Đục mờ mây lạnh ôm chầm đồi hoang
Hai tên hộ vệ mở đàng
Sư già máu cuộn buồng gan hận thù
Nhắm đầu, côn sắt bay vù
Võ quan bên trái lăn cù khỏi yên
Bay vèo, ngọn giáo phóng xiên
Bổ nhào, tên khác chết liền theo sau
Khiếp kinh dựng tóc xuôi râu,
Văn Toàn chưa hết lẽ nào liệu toan
Lôi thôi vừa tới Tam Quan
Nghe dài tiếng hú lửng ngang lưng trời
Ngân xa đồng vọng núi đồi
Ngàn sao giá lạnh vượt ngoài Thái Hư
Trên đầu tháp cổ phất phơ
Tuyết pha sắc áo, trăng mờ ngọn côn
Ấm hơi, dõng dạc ôn tồn
Sấm gầm giọng nói, sóng dồn cỏ hoa
“Bọn bây quen thói gian tà
Đêm hôm dẫn xác làm ma không đầu
Sá gì một mảnh áo nâu
Lùa quân vô tội dãi dầu dặm sương
Hai tên dẫn lối ngông cuồng,
U mê chết bụi chết đường nát thây
Chồn gian, sói ác lũ bầy
Chó nào chủ nấy, tớ thầy khác chi
Bày trò dâm loạn cung vi
Lung lăng tiếm vị kể chi đất trời
Manh tâm thay bực đổi ngôi
Đảo điên phong hóa, suy đồi lễ văn
Quê nghèo cực khổ nào bằng
Áo quần rách rưới miếng ăn tồi tàn
Cao lương mỹ vị mỡ màng
Sâu dân mọt nước tham quan cửa quyền
Của chung chèn nhét túi riêng
Lửa chăm sách vở thánh hiền ra tro
Nực mùi giọng lưỡi côn đồ
Giáo gươm giết kẻ thế cô hiền lành
Giàu sang vinh hiển riêng mình
Chết còn trối kệ mặc tình dân đen
Ngôi cao lũ mọi ương hèn
Học đòi cờ quạt trống kèn ngựa xe
Non Nam đốn rụi nứa tre
Cũng chưa chép hết tội bè Khiết Đan
Biển Đông nước xoáy sóng tràn
Gụt đâu sạch thói tham tàn bọn bây
Áo tơi, quần mướp xưa nay
Khuất tròng danh lợi, bịt tai chuyện đời
Thong dong chùa ẩn mây trời
Công phu chuông sớm, rong chơi ban chiều
Vừa rồi giặc cỏ lắm điều
Chùa chiền bươi nát, đơn biều dẹp tan
Ỷ đông, hại kẻ quả quan,
Chó bầy háo cắn – Nghĩ càng thương thân
Nay ta phát nguyện một lần
Giúp dân trừ bạo, diệt quân phản loan
Mày râu chí cả trót mang,
Sợ chi giữa trận, Long Toàn gãy đôi
Long tong cá chốt mê mồi
Tham ăn rốt cục thây trôi theo dòng
Bốn phương nhen nhúm lửa hồng
Dang tay góp gió, bão giong sẽ tràn
Là ngày hùm rũ xương tàn
Thuồng luồng mục xác trong hang âm thầm
Lằng ruồi, ong kiến bặt tăm
Non chờ nước đợi – Ngàn năm thái bình”.
Văn Toàn xuống lịnh Yên binh
Lui ra trống trải, tự mình ứng cơ
“Bổn quan nóng ruột mong chờ
Đọ so cao thấp nước cờ tranh tiên
Mựa đừng múa mỏ nói điên
Long tranh hổ đấu một phen mới là”.
Nhẹ nhàng thân pháp lạc hoa
Lão sư đáp xuống cách ba trượng ngoài
Mày thanh mắt phụng hình mai
Tiên phong đạo cốt râu dài trán cao
Nắng vàng tươi mặt hồng hào
Trường côn lạnh thép, bạch bào in sương
Văn Toàn cao ngạo dương dương
“Gần chung xuống lổ, tranh phuông nỗi gì ?
Biết điều đầu mọp gối quì
Rước chi cái chết thây thi chẳng toàn”
Sư già dõng dạc hiên ngang
“Tuổi cao tác lớn cũng trang anh hung
Chém bay đầu giặc Tây Nhung,
Tiếng đêm hạc vọng chạy ùng quân Liêu
Ngã màu bông, tóc Ban Siêu
Vung ba thước kiếm đạp xiêu lũy thành
Biên thùy bọn phỉ nghiêng mình
Bốn phương Triệu Kiệt oai danh ngất trời
Nay ta nói tắt một lời
Giết mi rửa hận cứu đời mới an”.
Văn Toàn lửa giận dẫy tràn
Kiếm vung bổ dọc chém. ngang mấy đường
Lung linh ánh thép lồng gương
Vèo vèo gió rít, đẹp dường hoa bay
Lão sư cử nhẹ côn dài
Nhún chơn lui bước ra ngoài tầm gươm
Tướng Yên long mắt lườm lườm
Múa tròn binh khí nhảy chồm giao phong
Vực sâu, sấu dữ lộn lồng
Cũng đâu dễ bắt chim hồng mây cao
Nghiêng mình xao động áo bào
Phi tiêu một ngọn vụt ào khỏi tay
Thổi làn hơi nhẹ heo may
Nữa thanh kiếm gãy văng ngoài nằm phơi
Vội vàng cẳng sải tay bơi
Văn Toàn chụp ngọn kích nhồi sau lưng
Của tên tùy tướng nạp dưng
Mím môi cười gượng muôn phần hổ ngươi
“Sắt non dám sánh vàng mười
Bao lăm tài bộ coi trời bằng vung”
Ầm ầm sấm động mây đùn
Răng beo dưới thấp, vuốt rồng trên cao
Côn dài đùa ngọn sóng trào
Mưa tuông cội liễu, gió gào rừng thong.
Sư già qua lại thủ công
Tay côn thoăn thoắt lượn vòng cương nhu
Gậy vung đánh đở vù vù
Thích vào giữa trán Phiên nô mấy lần
Nhặt thưa, tay điểm hoa văn
Viết thành chữ “cẩu” in hằn máu hoen
Tai mèo cắt đã hai phen
Tía tai đỏ mặt, nổi điên đùng đùng
“Hiểm sâu thay! Lão trọc khùng
Tu hành dối trá, dạ lòng gian ngoan
Thù sâu muôn kiếp nào tan
Giết mi mổ mật, móc gan rửa hờn
Chùa đâu ngách sói hang chồn
Một bầy ma quỉ, một phồn hổ lang”.
Kíp truyền thuộc hạ dàn ngang
Xôn xao nỏ kéo, vội vàng cung giương
Liều thân dốc chí tranh cường
Sống hùng nào quản bước đường chông gai
Thâu toàn sức lực vào tai
Ngọn đao trủy thủ vụt bay lộn vòng.
Văn Toàn sơ ý chẳng phòng
Trúng thương ngực đẩm máu hồng ngả lăn
Chống kình mỗi phút nhọc nhằn
Tới lui chậm chạp, rào ngăn vụng về
Am mây lửa dậy bốn bề
Phủ dày cả cội bồ đề khói cay
Tan hoang chánh điện lễ đài
Tàn tro theo gió đồi ngoài lũng trong
Mũi lòng lệ nhỏ ròng ròng
Liếc ngang thấy cảnh tấc lòng vò tơ
Đương cơn giựt giáo cướp cờ
Hỡ tay, sễnh miếng hẳn giờ tử vong
Thờ ơ giáo sắt tên đồng
Hồn nương cánh hạc non bồng đi xa
Đền xong nghĩa nước tình nhà
Vuông tròn Đời Đạo, vẹn ta vẹn người
Mắt thanh thản ngắm nhìn đời
Chống côn nẩy ngực giữa trời như không
Trắng tinh mây nổi bình bồng
Thời gian nuối - Vẫn xuôi dòng ai hay
Cội thong vóc thẳng lá dày
Cúc vàng mấy đóa lạc loài bờ hiên
Đức Từ Bi chứng lời nguyền
Nước Cam Lồ rưới - Nghiệp duyên an bài
Chưa phân loại
Uncategorized