Tác giả: Bùi Thanh Kiên
Hồi Thứ Nhứt
Trường An thất thủ, Huyên Tôn tới Cẩm Thành
Đồng Quan sa cơ, anh hùng lâm mạt lộ
1A) LOẠN AN LỘC SƠN
Trung Nguyên sóng gió tơi bời
Sông khô núi sụp đổi dời phù vân
Tôi loàn con giặc Lộc Sơn
Tiếm xưng đế hiệu khinh lờn điện loan
Đất bằng sấm nổ sét vang
Xiên đồn đạp lũy phá tan thành trì
Thói thường quỉ lộng thời suy
Quốc Trung là đứa vô nghì ác gian
Ngựa trâu tầm loại hợp đoàn
Manh tâm xô ngã miếu lăng Đường trào
Hương trời sắc nước bấy lâu
Tấn cung Dương thị làu làu bóng gương
Gác son kín cổng cao tường
Gấm phong lụa rũ hải đường mặt hoa
Lan vóc ngọc huệ da ngà
Thẹn thua dung mạo Hằng Nga khom mình
Minh mông biển ái trời tình
Hồ thu gợn sóng lung linh đầu mày
Vẫy vùng thước kiếm khiên mây
Dễ no đáy mắt nét ngài hường nhan
Tìm vui nệm thúy màn loan
Vườn lê tơ trúc rộn ràng thâu đêm
Cầu vồng rỡ áo ngời xiêm
Men lừng lửa dục lòng mềm dáng xuân
Bướm si say cánh hoa rừng
Ác tà thỏ lặn tưởng chừng phút giây
Trễ tràng triều ngự hôm mai
Nỗi dân việc nước đoái hoài chi đâu
Mây mưa càng đắm càng sâu
Võ vàng long thể âu sầu hình mai
Éo le con tạo khéo bày
Non mòn sông lở họa tai gần kề
Biên cương lửa ngập trời mê
Chập chùng xương chất bộn bề thây phơi
Ngự Dương trống thúc chiêng hồi
Quân reo dậy ải núi đồi chuyển nghiêng
Lũ cuồng thác loạn mọi niền
Chẻ tre nát ngói binh Yên ập vào
Cam tuyền chìm giữa ba đào
dập dìu quỉ dữ xôn xao lạ thường
Ngoài thành vuốt múa nanh giương
Bình Lư hợp sức Phạm Dương dấy loàn
Mưu thần chước thánh khó toan
Thở dài bó gối khôn đường tới lui
Hôi tanh sâu bọ lằn ruồi
Bám đeo hào lũy dập vùi cỏ hoa
Điều binh khóa chặt đường ra
Sóng sôi lửa giận bốc hòa máu say
Được thua còn một trận nầy
Danh thơm cõi suối làng mây muôn đời
Sá gì tên lạc đạn rơi
Sử xanh bia miệng nối lời muôn thu
Chốt đầu chặn lối Thành Đô
Kình Dương ải vững cơ đồ mới an
Trướng hùm tướng sĩ luận bàn
Ngăn đườn giặc tấn bảo toàn đế kinh
Thuồng luồng quấy động biển xanh
Cọp điên cậy sức băng mình ào qua
Đông tàn bấc lạnh cắt da
Lộc Sơn mở thế trận ra tung hoành
Vạc kêu sương hé bình minh
Sói lang cản lối ngạc kình ngăn sông
Ra oai rõ mặt anh hùng
Đẩy lui sóng gió vẫy vùng dọc ngang
Bày xe dọn pháo rộn ràng
Cửa viên dạ sắt gan vàng giáp công
Cao xanh đành đoạn phụ lòng
Bọc thây da ngựa tận trung dưới cờ
Phách nương gió phất dật dờ
Con thơ vợ dại bơ vơ tìm về
Nực nồng máu nhớp bốn bề
Điêu tàn cõi ấy thảm thê đường nầy
Ô chùy gió thốc bụi bay
Trường An tốc thẳng nội ngày tới nơi
1B) Dấu Xe Hạnh Thục
Chợt nghe tin gấp rụng rời
Trong tay cầm chắc đủ mười lao đao
Hãi kinh tôi chúa bôn đào
Theo gương Huyền Đức lánh vào Tứ Xuyên
Lẻn chuồn bỏ mộ tổ tiên
Nhọc nhằn trăm họ oan khiên dân lành
Hận tràn ngất ngọn mây xanh
Cuốn phăng công đức bình thành lâu nay
Ùng ùng gió giục mưa bay
Nắng nung mặt rát đường dài mắt hoa
Màu chiều vàng ố bóng tà
Mây giăng mờ Mã Ngôi pha mịt mùng
Nhạn đơn tiếng lẻ não nùng
Trắng phau dặm cát mênh mông đất trời
Lìa nhành nhớ cội lá rơi
Sương mù quạnh núi lệ trôi xót mày
Băng truông lướt bụi mệt nhoài
Vợ con đeo thẹo chơn tay dắt dìu
Nách mang tay xách đơn biều
Cũng đành nhắm mắt theo liều quân đi
Trẻ thơ có tội tình gì
Ốm đau bú mớm bù chì nào ai
Già rung gậy lạc khỏi tay
Bơ vơ đất lạ rủi may vận thời
Cỏ bồng tróc gốc bay khơi
Thềm hoang rêu đậm bước đời tha hương
Mỏn hơi tà kiếp vô thường
Nắm xương vô chủ lửa hương đâu nào
Xanh xanh trời mấy từng cao
Tiếng than xé ruột nỡ nào làm ngơ
Trăng liềm thiêm thiếp bóng mơ
Chim côi xa ổ hững hờ về đâu
Thẹn thùng nắng vắt nhành cao
Nước khe cơm gói đi vào Mã Ngôi
Tâm tư héo hắt theo người
Ngày mai nào biết một đời tha hương
Mặt chai cát bốc bụi vương
Lòng đau quán cỏ giường sương canh dài
Tranh hơn thua kiếp đọa đày
Trăm năm nháy mắt đổi thay khó tường
1C) Dương Quí Phi Chết
Thúy hoa kiệu tía tàn hường
Dùng dằng quân kỵ mở đường không đi
Đổi dòng sông nước bất kỳ
Rủi may suy thạnh một khi biến dời
Khói un mờ mịt mây trời
Ngựa chồm xiên ải tơi bời phong ba
Ngán thay mắt phụng da ngà
Xô xiêu đồn lũy nụ hoa hải đường
Dồn năm dụm bảy tán bàn
Phải đồng lòng giết được nàng mới yên
Siết tay rập tiếng thề nguyền
Nhổ cho tiệt cỏ cường quyền dễ nau
Dầu ai bện sáo ngăn rào
Cũng không chận nổi nhịp trào sóng xô
Lâu nay có mắt như mờ
Nào ai đoán được sự cơ lạ thường
Điện tiền Ngự Sử Lý Phương
Gò cương xuống ngựa giữa đường tâu lên
“Nghiệp truyền vua trước dựng nên
Xác xây bờ cõi vững bền giang san
Mây đen vẩn đục trời quang
Máu hoen hoa gấm lửa tràn dầu sôi
Sống mòn chết thảm nơi nơi
Biên cương sấm động ngòi nơi cung đình
Lở tan núi sụp nghiêng thành
Quân đòi Dương thị hành hình nơi đây
Ví bằng Vương thượng riêng tây
Tài Gia Cát cũng hkó xoay cơ đồ
Vận xui nghiêng chích thế cờ
Thánh Hoàng mau quyết chần chờ không hay”
Quí Phi phách rụng hồn bay
Sắc hoa chàm đỏ mặt mày ủ ê
Trăng trong vườn ngự oanh đề
Chén hà thất tịch câu thề bá niên
Nghê thường điệu múa cung tiên
Vành ngân còn tạc lời nguyền trăm năm
Dầu khi hoa gãy bình trầm
Chung cành liền cánh sắt cầm bền lâu
Áo là lả chả dòng châu
Huyền Tôn dựa gối màu sầu ngẩn ngơ
Thuyền tình phút vội xa bờ
Hường nhan phận mỏng ai ngờ chăng ai
Mưa xuân chớm bén nhành mai
Nào hay én nhạn lạc bầy Bắc Nam
Tuyệt tình ca khúc thương tâm
Dòng Tương ngăn lối dương âm cách vời
Gây chi oan nghiệt bấy trời
Chia quyên rẽ thúy cho người hợp tan
Xót tình nặng nghĩa tào khang
Thương cây đoái cội tấc đàng hiểm nguy
Non tình biển ái cuồng si
Non song máu lửa tức thì chìm sâu
Vô tâm lòng phụ lòng nhau
Nhơ danh bạc ác đời sau chê cười
Vò tơ ngàn mối rối bời
Đứng trên đống lửa lại ngồi lò than
Thôi đành ngọc nát vàng tan
Vuông tròn điều nghĩa lỡ làng mối duyên
Tri âm dám phụ lời nguyền
Vào ra phải lẽ khinh quyền gồm hai
Mực nhiên giấy viết kíp bày
Tam ban trào điển phê ngay cho nàng
Bút sa gà chết rõ ràng
Mưa sầu ướt chiếu lệ tràn đẫm mi
Bốn bề giáp sĩ nể gì
Giựt văng khỏi kiệu bắt quì trước xe
Sắn bìm tùng cả khó che
Phút giây tuyệt mạng gần kề một bên
Rác bèo nước giạt lênh đênh
Ôi thôi đành sóng cuối ghềnh cuốn xuôi
Cồn dâu biển thẳm biến dời
Xót chi sao lạc lưng trời đầu mây
Dùn mình lụa trắng cầm tay
Trời xanh cay độc rã hai lối tình
Đồi cây dặm cát lặng thinh
Ngùi thương nửa kiếp phù sinh má đào
Gò hoang lạnh ngắt bóng lau
Vùi nghiêng chôn sấp mặc dầu gió mưa
Quốc Trung nào hãn sự cơ
Giong cương vừa tới đâu ngờ tai ương
Gươm trần kích chỉa nỏ giương
Đâm ngang sả ngược rộn rang kiếm đao
Cát vương bụi vấy áo bào
Phún vòi máu giội đỏ đầu cỏ sương
Phân minh đen trắng tỏ tường
Kỵ binh sải vó rút đường Thành Đô
Mây vần gió giục sóng xô
Lạnh căm nhạc ngựa bụi mờ đồng hoang
Vọng lâu nom rõ tàn vàng
Phát hồi pháo lịnh trải đàng chiếu hoa
Điếu kiều hào rộng gác qua
Tiếp nghinh xe trận long xa nhập thành
Cắt quân gác đại bản dinh
Đúc rèn khí giới luyện binh làm đầu
Râu mày thỏa mộng cung dâu
Gót Văn bến Vị tìm cầu Tử Nha
Hịch truyền muôn dặm bay qua
Non gần trấn tướng sông xa sáo hàn
1D) Ải Đồng Quan – Gia Thế Họ Châu
Ải Đồng diệu vợi quan san
Đối đầu giặc loạn Khiết Đan trùng trùng
Cột rường danh rạng anh hùng
Phơi gan tuấn kiệt vẫy vùng chiến y
Xông vào lửa cứu nước nguy
Lịnh nghiêm quân sĩ thành trì kim thang
Đường đường chủ soái Thiên Lương
Tài văn đức võ tiếng vang giang hồ
Dọc ngang biển Sở sông Ngô
Ngăn biên ải vững hoàng đô Đường trào
Thông minh thiên bẩm dành trao
Rèn tinh trận pháp luyện làu binh thư
Lẫy lừng muôn trận dưới cờ
Trải ba đời chẳng phai mờ lòng trung
Phước lành âm đức gia phong
Hạ sanh con trưởng má hồng Nam Vân
Hà Châ làng cũ nương thân
Dưỡng nuôi bà nội tảo tần nông tang
Chồng con nhà cửa đã an
Cày sâu cuốc bẳm thanh nhàn thú quê
Thứ hai Mạnh Đạo tên đề
Hồn theo gác khói vẹn thề núi song
Cuối cùng đẻ muộn Trọng Thông
Mày thanh mắt đẹp nối dòng Nho gia
Rồng bay phượng múa tài hoa
Sớm hôm đạo cả bên cha hầu kề
Phòng văn lửa đóm mải mê
Sân Thi nền Lễ đi về sớm trưa
Nghề riêng tao nhã cầm thư
Ban Siêu nét bút Tương Như giọng đàn
Thần cơ diệu toán ai đang
Dưới thong địa lý trên tường thiên văn
Ngọn mây vút mút cánh bằng
Lợi danh rang buộc gạt phăng đâu màng
Hạc đồng nội rộng thênh thang
Mây xanh in dấu mây vàng theo chơn
Ngại gì áo mỏng mền đơn
Trăng trong bầu bạn tiếng đờn sân hiên
Quận châu nức tiếng côn quyền
Tài lành đường kích gia truyền bấy nay
1E) Rước Sứ
Cỏ non sè cánh én bay
Bông đào lấm tấm sương mai trắng ngần
Đua chen trai gái tưng bừng
Lam kiều dẫn lối hội xuân chật đàng
Kết hoa cuối ấp đầu làng
Thiên Lương đoái cảnh ngỗn ngang tấc lòng
Trách người không cạn đục trong
Đua đòi trau lục chuốc hồng mà chi
Hận chung đền báo được gì
Quần điều áo tía pháo đì đùng reo
Nhục vui, vui nhục trăm chiều
Sao chưa thức tỉnh đắm điều mê say
Ủ ê áng sách hương đài
Bỗng đâu có sứ - Thành ngoài bẩm tin
Thay xiêm đổi áo tiếp nghinh
Phân ngôi chủ khách trần tình khúc nôi
Rằng: “Câu răng lạnh hỡ môi
Rủi may vận nước nằm nơi ải Đồng
Trăm năm xin chớ phụ lòng
Giữ gìn hoa gấm thủy chung trọn niềm
Địch kia mở thế gọng kìm
Bủa vây bốn phía nhận chìm Thành Đô
Cẩm Thành đất dựa ban sơ
Kén binh chọn tướng chờ giờ phản công
Ví bằng tay trắng hoàn không
Ngàn năm mòn núi cạn sông còn gì! …”
Lễ bày tiếp chỉ tức thì
Dọn bàn hương án cúi quì nghe qua
Chiếu ban ngự bút giở ra
Long phù ấn tín phương xa gởi về
Truyện rằng: “Đất thảm trời thê
Bụng phơi hùm sấu, lưng kề sói lang
Mồ hôi đẩm áo giáo trường
May ra đánh đổi bước đường thương vong
Sửa sang vách sắt tường đồng
Dàn binh bày trận giao phong tranh cường”
Vó câu lướt cỏ sũng sương
Hoa ngàn trải nhụy đưa hương ngạt ngào
Trướng huỳnh tim lụn dầu hao
Thành ngiêng nước đổ lẽ nào ngủ yên
Một mình trằn trọc gối nghiêng
Thẩn thờ trở gót, khuê triền quạnh mây
Vòm Đông, đêm nuối mộng dài
Lét leo lửa bấc – Hao gầy mắt môi
Lơ mơ ngửa mặt dòm trời
Trán nhăn má cóp - Đổi dời biển dâu
Niềm riêng - Rượu cạn mấy bầu
Trắng canh bạc tóc xua màu xuân xanh
Đêm tàn trống thúc vọng canh
Bồi hồi đếm bước mai đình ngẫn ngơ
Mây hường rựng ngọn núi mờ
Bầu trời xám, vạc lững lờ kêu thương
Bình minh, bươn bả thăng đường
Họp bàn tướng cạnh liệu phương ngăn phòng
Tập tành thao dượt tinh rhông
Cất chòi gác nhặt, rải chông đặc hào
Tuốt trần thép lạnh gươm đao
Ba quân hào khí ào ào như sôi
Sao trời hăm hở nuốt trôi
Không dung lũ hái trái rồi đốn cây
Đặt quân kỳ chánh trong ngoài
Lưới giương bẫy mở rập loài tinh ma
1F) An Lộc Sơn Đánh Đồng Quan
Hận tình tan Mã Ngôi pha
Lộc Sơn huy động trảo nha rửa hờn
Tấn binh đá chạy cát vờn
Thây chồng tối mắt cao hơn đầu người
Vó câu hốt bụi mịt trời
Voi bầy xông lướt lạch ngòi vỡ toang
Trốt bồng, lửa xoáy ải quan
Lù dâng suối thấp, bão đàn nhành cao
Huỳnh hôn tím ngắt mây sầu
Kỵ binh bộ tốt bào hao tranh hành
Giương binh khí múa vuốt nanh
Lung lăng coi dưới mắt mình không ai
Lập lòe lửa đóm ma trơi
Chòm cây lới tắt ẩn rồi hiện ra
Binh triều nhóm bảy tụ ba
Giáo cờ thưa thớt mâu qua ngại ngần
Quân Yên giục ngựa bén chân
Rần rần đuổi giết lính tuần ải quan
Tra roi, cướp lối, chặn đàng
Mây vần vũ nổi, sương vàng cuộn bay
Nửa chừng, rẽ quặt truông mây
Đưa đoàn mao nhãn nạp thây Tần Hồi
Ngựa chồn, áng bước lôi thôi
Dây chằng vướng vít, sóng nhồi mưa tên
Khó lui, chẳng thể tiến lên
Máu loang đỏ giáp tiếng rên thấu trời
Đồng lầy đùa với lửa chơi
Giữa vòng tên đạn – Khóc cười biết sao
Trùng vây chèn kín gươm đao
Lưỡi câu móc sắt dính vào thịt da
Vận xui tưởng đã thoát qua
Đường mòn dẫn lối rừng già gian nan
Chim say lịm giấc sương ngàn
Quạnh hiu lá rụng canh trường cuối thu
Cỏ rơm đương lớp xây cù
Hầm sâu bẩy sập làm mồi giặc An
Thê lương lạnh bước sa tràng
Núp khe gươm tuốt, len tàn tên bay
Bàn cờ thế, phút sa tay
Rớt tòm hố thẳm, chông dài đâm xiên
Đốc quân thị sát trận tiền
Hang beo trỏ giáo, Long tuyền cầm tay
Bập bùng lửa rực trời mây
Thét oai sấm động, ra tài hùng anh
Vai gầy dáng dấp thơ sanh
Áo bào trắng, Bạch Hổ Tinh hiện về
Ngựa hồng giậm cẳng bên khe
Công đầu ắt hẳn đà về tay Châu
Ém hơi nằm chực rừng sâu
Hiệp đồng mai phục đón đầu giăng cây
Siết dồn khóa chặt vòng vây
Xương dồn mương rãnh, hồn hoài cố hương
Vọng canh bóng nguyệt mờ gương
Giáp vàng mũ trụ Thiên Lương thăng đường
Đầm đìa cành muộn đọng sương
Tít xa núi lợt vấn vương đêm dài
Đương cơn lửa đỏ cháy mày
Họp cùng tướng sĩ liệu bày mưu cơ
Nắng hoe hoa cỏ dật dờ
Mây đùn trời thẳm, khói mờ non xanh
Toán quân canh gác vào thành
Báo tin Nhung địch động binh mấy vòng
Bủa vây không lọt mảy long
Nhổ từng rễ cỏ ải Đồng mới nghe
Quân triều thét một lời thề
Gan đồng dạ đá chẳng hề núng nao
Nước non nghĩa nặng tình sâu
Dân đen khổ cục nỡ nào khoanh tay
Trăm viên hổ tướng dững mày
Quyết gìn chánh khí dẫu dài gian nan
Ngọn thành gươm lợp giáo đan
Thiên Lương mão sắt giáp vàng uy nghi
Kích giương mắng chẳng nễ vì
“Bầy sâu lũ bọ biết gì ngỡi nhơn
Tịu tằng với ả Thái Chơn
Rình mò ăn vụng tiên đơn khác gì
Mặt mo giở thói gian phi
Mưu đồ phản nghịch bọn mi một loài
Khá khen bộ vó anh tài
Chồn mang lớp cọp, khéo bày trêu ngươi”
Lộc Sơn gằn giọng cả cười
“Mừng thầm cho đó biết người biết ta
Bạc đầu mỏi gối dùn da
Còn ham quền tước, vinh hoa nhơ hình
Hươu Tần thiên hạ gật mình
Long Cơ dâm đãng bất minh vô tài
Mắt che ngựa chạy đường dài
Ngu trung cam kiếp kẻ cười người chê
Biết điều cởi giáp theo về
Cúi đầu hàng phục đề huề chúa tôi
Diệt Đường ta quả xứng ngôi
Dẹp tan châu quận, thâu rồi hai kinh
Móc mưa rưới xuống sẳn dành
Con sang vợ trọng bất bình nỗi chi?
Ví bằng cạn nghĩ vụn suy
Đồng Quan bình địa một khi san bằng”
Thiên Lương điểm mặt mắng rằng
“Trèo thang cóc muốn lăng nhăng đua đòi
Ngốc như mi cũng dạy đời
Răng thưa môi mỏng bày lời lố lăng
Hang cùng nào biết lễ văn
Luông tuồng cẩu hợp thói gần chim muông
Gian tham ngu ác một xuồng
Đổi ơn làm oán, tìm đường quay lưng
Ta đây trượng ngãi chuộng nhân
Giá trong tiết sạch, nát thân đâu nài
Sá gì chớp giựt mưa bay
Chỉ nguyền sống thác một hai dưới cờ
Về hang ổ, rửa cổ chờ
Binh trời hỏi tội, định giờ phân thây”
Lá vàng ru rẩy hơi may
Nắng chiều úa sắc, trời tây bóng tà
Đầu mây điểm lợt rang pha
Chim hôm chiu chít nhánh sà mặt song
Vượn đơn kêu thảm não lòng
Rã rời thưa thớt trống thùng vọng canh
Gió cuồng rứt lá lìa cành
Đại kỳ gãy tốt, mặt thành đưa tin
“Ô hô! Trời chẳng thương mình
Cung rơi đạn lạc cũng đành mạng căn
Cao dầy nỡ bẻ cánh bằng
Ép người vào cuộc lăng nhăng sắp bày
Kíp truyền tướng sĩ trong ngoài
Sửa sang hầm hố bày khai trận đồ
Chiến trường đã ước hẹn giờ
Nực cười giặc khéo giở trò trẻ con
Nửa đêm pháo lớn nổ dòn
Tường run, sấm động, sóng cồn vượt mây
Mặt thành, ném đá quăng cây
Lửa lan giáp đất, tro bay mịt trời
Nổ ầm quả lựu mấy hồi
Pháo bầy ong nện bời bời bủa quanh
Mở then cửa đột phi hành
Đức Tâm rút soạt hai thanh kiếm trường
Đột xông ngang dọc tranh cường
Chém người như chuối Đơn Dương chẳng tày
lợi Trimh phóng ngựa cửa tây
Điều quân mã kỵ hiệp ngoài Châu Thông
Trùng vây vòng lại siết vòng
Kích gươm loảng xoảng, địch trong giặc ngoài
Đeo tường nhún ngọn thang bay
Sói muông cầy cáo chắp dài giáo lan
Nơi nơi hỗn độn dọc ngang
Hào nào ngăn nổi lớp hàng Phiên binh
Da dê quấn chặt quanh mình
Dao con giắt bụng, lưng thành đu dây
Pháo thần vạn quả đặt ngoài
Đạn như mưa bấc rót ngay xuống thành
Kho lương lửa dậy thình lình
Chống ngăn gắng gượng đua tranh sống còn
Binh triều phút một hao mòn
Tường bay đất sụp lũy đồn tan hoang
Quân Yên ngây máu sa tràng
Nghinh ngang binh khí, rộn ràng nỏ cung
Đuốc rà hang hố lục sùng
Quyết lòng xóa sổ ải Đồng mới thôi
Nặc nồng mùi bốc tanh hôi
Thấy nguy Châu vội phản hồi dinh trung
Giục cha liệu nước cờ cùng
Vượt tầm giáo mác, thoát vòng tử sinh
Sức dung thần khiếp quỉ kinh
Cản quân đuổi gắp liều mình cứu cha
Thiên Lương gót thúc roi tra
Mở ra đường máu tràn qua biển người
Kích quay xẻ gió lưng trời
Rồng thiêng tung sóng giữa vời biển xanh
Bất thần hét tiếng thất thanh
Ôm hông, bão cuốn ghe mành ngửa nghiêng
Châu Thông lướt tới đỡ liền
Xốc bồng lên để ngồi yên ngựa mình
Chật chen lớp lớp tướng binh
Nặng nề bước ngựa hành trình gian nan
Đục trầm, va sắt, chạm vàng
Phóng phi nước đại cướp đàng ruổi giong
Quanh co ngỏ tối mịt mùng
Ngửa tay chẳng thấy – Quân không đuổi dồn
Lách luồn len lỏi truông mòn
Lần men dặm thỏ,dò con suối rừng
Trời Đồng Quan ửng lửa bừng
Tro đùn thành lạnh mắt trừng hờn căm
Máu tuôn thấm áo ướt dầm
Giọt châu dài vắn, khôn cầm đau thương
Ngại ngần rón rén dặm sương
Gà rừng gáy rộ đêm trường lũng xa
Lửng trời, vụt ánh sao sa
Dựa lưng gốc lớn đặt cha tạm ngồi
Mũi lòng, tấc dạ bùi ngùi
Thuốc thầy đâu biết rước mời trị thương
Xé toang vạt áo buộc choàng
Thiên Lương nửa tỉnh nửa dường hôn mê
Khều con má áp tai kề
Phều phào giọng nói giải giề tâm tư
“Đã năm mươi tuổi có dư
Lòng vui làm tướng dưới cờ qui tiên
Một mai phách lạc cửu tuyền
Ngậm cười giữ trọn lời nguyền quân thân”
Nghẹn lời, run rẩy tay chân
Mắt lờ đờ khép, ngưng thần đứt hơi
Tim đau, đầu óc rối bời
Vùi sâu hài cốt lưng đồi Huỳnh Sa
Hỏi chưa cặn kẻ tin nhà
Cội nguồn sóng giạt biết là về đâu?
Ngán thay con tạo cơ cầu
Đất bằng xui hóa biển sâu làm gì?
Rừng hoang cỏ tối rậm rì
Từng cơn gió trút lá vì vèo bay
Núi đồi rờn rợn lạnh vai
Ngôi sao xa lắc cuối trời buồn tanh
Lẻ đơn đèo dốc lặng thinh
Cú sầu điểm một ngồi rình canh thâu
Đi đây nào biết về đâu?
Dặm mây thăm thẳm một màu bao la
Bẽ bàng thay cõi người ta
Trán hằn vất vả, mắt lòa lo âu
Gương Nga xô ngả bóng sầu
Bình minh thoáng điểm hường đầu non Đông
Biển trời khó sánh được công
Hứng hoa, nâng trứng ẳm bồng chắt chiu
Nồi kê quán trọ đìu hiu
Tóc mai tơ mướt, đầu chiều tuyết pha
Cúi đầu lạy giã biệt cha
Thay xiêm đổi áo bôn ba đăng trình
Hang sâu giấu dạng tăm kình
Hòa thân cát bụi, gởi mình gió sương
Bùi Thanh Kiên
Trường An thất thủ, Huyên Tôn tới Cẩm Thành
Đồng Quan sa cơ, anh hùng lâm mạt lộ
1A) LOẠN AN LỘC SƠN
Trung Nguyên sóng gió tơi bời
Sông khô núi sụp đổi dời phù vân
Tôi loàn con giặc Lộc Sơn
Tiếm xưng đế hiệu khinh lờn điện loan
Đất bằng sấm nổ sét vang
Xiên đồn đạp lũy phá tan thành trì
Thói thường quỉ lộng thời suy
Quốc Trung là đứa vô nghì ác gian
Ngựa trâu tầm loại hợp đoàn
Manh tâm xô ngã miếu lăng Đường trào
Hương trời sắc nước bấy lâu
Tấn cung Dương thị làu làu bóng gương
Gác son kín cổng cao tường
Gấm phong lụa rũ hải đường mặt hoa
Lan vóc ngọc huệ da ngà
Thẹn thua dung mạo Hằng Nga khom mình
Minh mông biển ái trời tình
Hồ thu gợn sóng lung linh đầu mày
Vẫy vùng thước kiếm khiên mây
Dễ no đáy mắt nét ngài hường nhan
Tìm vui nệm thúy màn loan
Vườn lê tơ trúc rộn ràng thâu đêm
Cầu vồng rỡ áo ngời xiêm
Men lừng lửa dục lòng mềm dáng xuân
Bướm si say cánh hoa rừng
Ác tà thỏ lặn tưởng chừng phút giây
Trễ tràng triều ngự hôm mai
Nỗi dân việc nước đoái hoài chi đâu
Mây mưa càng đắm càng sâu
Võ vàng long thể âu sầu hình mai
Éo le con tạo khéo bày
Non mòn sông lở họa tai gần kề
Biên cương lửa ngập trời mê
Chập chùng xương chất bộn bề thây phơi
Ngự Dương trống thúc chiêng hồi
Quân reo dậy ải núi đồi chuyển nghiêng
Lũ cuồng thác loạn mọi niền
Chẻ tre nát ngói binh Yên ập vào
Cam tuyền chìm giữa ba đào
dập dìu quỉ dữ xôn xao lạ thường
Ngoài thành vuốt múa nanh giương
Bình Lư hợp sức Phạm Dương dấy loàn
Mưu thần chước thánh khó toan
Thở dài bó gối khôn đường tới lui
Hôi tanh sâu bọ lằn ruồi
Bám đeo hào lũy dập vùi cỏ hoa
Điều binh khóa chặt đường ra
Sóng sôi lửa giận bốc hòa máu say
Được thua còn một trận nầy
Danh thơm cõi suối làng mây muôn đời
Sá gì tên lạc đạn rơi
Sử xanh bia miệng nối lời muôn thu
Chốt đầu chặn lối Thành Đô
Kình Dương ải vững cơ đồ mới an
Trướng hùm tướng sĩ luận bàn
Ngăn đườn giặc tấn bảo toàn đế kinh
Thuồng luồng quấy động biển xanh
Cọp điên cậy sức băng mình ào qua
Đông tàn bấc lạnh cắt da
Lộc Sơn mở thế trận ra tung hoành
Vạc kêu sương hé bình minh
Sói lang cản lối ngạc kình ngăn sông
Ra oai rõ mặt anh hùng
Đẩy lui sóng gió vẫy vùng dọc ngang
Bày xe dọn pháo rộn ràng
Cửa viên dạ sắt gan vàng giáp công
Cao xanh đành đoạn phụ lòng
Bọc thây da ngựa tận trung dưới cờ
Phách nương gió phất dật dờ
Con thơ vợ dại bơ vơ tìm về
Nực nồng máu nhớp bốn bề
Điêu tàn cõi ấy thảm thê đường nầy
Ô chùy gió thốc bụi bay
Trường An tốc thẳng nội ngày tới nơi
1B) Dấu Xe Hạnh Thục
Chợt nghe tin gấp rụng rời
Trong tay cầm chắc đủ mười lao đao
Hãi kinh tôi chúa bôn đào
Theo gương Huyền Đức lánh vào Tứ Xuyên
Lẻn chuồn bỏ mộ tổ tiên
Nhọc nhằn trăm họ oan khiên dân lành
Hận tràn ngất ngọn mây xanh
Cuốn phăng công đức bình thành lâu nay
Ùng ùng gió giục mưa bay
Nắng nung mặt rát đường dài mắt hoa
Màu chiều vàng ố bóng tà
Mây giăng mờ Mã Ngôi pha mịt mùng
Nhạn đơn tiếng lẻ não nùng
Trắng phau dặm cát mênh mông đất trời
Lìa nhành nhớ cội lá rơi
Sương mù quạnh núi lệ trôi xót mày
Băng truông lướt bụi mệt nhoài
Vợ con đeo thẹo chơn tay dắt dìu
Nách mang tay xách đơn biều
Cũng đành nhắm mắt theo liều quân đi
Trẻ thơ có tội tình gì
Ốm đau bú mớm bù chì nào ai
Già rung gậy lạc khỏi tay
Bơ vơ đất lạ rủi may vận thời
Cỏ bồng tróc gốc bay khơi
Thềm hoang rêu đậm bước đời tha hương
Mỏn hơi tà kiếp vô thường
Nắm xương vô chủ lửa hương đâu nào
Xanh xanh trời mấy từng cao
Tiếng than xé ruột nỡ nào làm ngơ
Trăng liềm thiêm thiếp bóng mơ
Chim côi xa ổ hững hờ về đâu
Thẹn thùng nắng vắt nhành cao
Nước khe cơm gói đi vào Mã Ngôi
Tâm tư héo hắt theo người
Ngày mai nào biết một đời tha hương
Mặt chai cát bốc bụi vương
Lòng đau quán cỏ giường sương canh dài
Tranh hơn thua kiếp đọa đày
Trăm năm nháy mắt đổi thay khó tường
1C) Dương Quí Phi Chết
Thúy hoa kiệu tía tàn hường
Dùng dằng quân kỵ mở đường không đi
Đổi dòng sông nước bất kỳ
Rủi may suy thạnh một khi biến dời
Khói un mờ mịt mây trời
Ngựa chồm xiên ải tơi bời phong ba
Ngán thay mắt phụng da ngà
Xô xiêu đồn lũy nụ hoa hải đường
Dồn năm dụm bảy tán bàn
Phải đồng lòng giết được nàng mới yên
Siết tay rập tiếng thề nguyền
Nhổ cho tiệt cỏ cường quyền dễ nau
Dầu ai bện sáo ngăn rào
Cũng không chận nổi nhịp trào sóng xô
Lâu nay có mắt như mờ
Nào ai đoán được sự cơ lạ thường
Điện tiền Ngự Sử Lý Phương
Gò cương xuống ngựa giữa đường tâu lên
“Nghiệp truyền vua trước dựng nên
Xác xây bờ cõi vững bền giang san
Mây đen vẩn đục trời quang
Máu hoen hoa gấm lửa tràn dầu sôi
Sống mòn chết thảm nơi nơi
Biên cương sấm động ngòi nơi cung đình
Lở tan núi sụp nghiêng thành
Quân đòi Dương thị hành hình nơi đây
Ví bằng Vương thượng riêng tây
Tài Gia Cát cũng hkó xoay cơ đồ
Vận xui nghiêng chích thế cờ
Thánh Hoàng mau quyết chần chờ không hay”
Quí Phi phách rụng hồn bay
Sắc hoa chàm đỏ mặt mày ủ ê
Trăng trong vườn ngự oanh đề
Chén hà thất tịch câu thề bá niên
Nghê thường điệu múa cung tiên
Vành ngân còn tạc lời nguyền trăm năm
Dầu khi hoa gãy bình trầm
Chung cành liền cánh sắt cầm bền lâu
Áo là lả chả dòng châu
Huyền Tôn dựa gối màu sầu ngẩn ngơ
Thuyền tình phút vội xa bờ
Hường nhan phận mỏng ai ngờ chăng ai
Mưa xuân chớm bén nhành mai
Nào hay én nhạn lạc bầy Bắc Nam
Tuyệt tình ca khúc thương tâm
Dòng Tương ngăn lối dương âm cách vời
Gây chi oan nghiệt bấy trời
Chia quyên rẽ thúy cho người hợp tan
Xót tình nặng nghĩa tào khang
Thương cây đoái cội tấc đàng hiểm nguy
Non tình biển ái cuồng si
Non song máu lửa tức thì chìm sâu
Vô tâm lòng phụ lòng nhau
Nhơ danh bạc ác đời sau chê cười
Vò tơ ngàn mối rối bời
Đứng trên đống lửa lại ngồi lò than
Thôi đành ngọc nát vàng tan
Vuông tròn điều nghĩa lỡ làng mối duyên
Tri âm dám phụ lời nguyền
Vào ra phải lẽ khinh quyền gồm hai
Mực nhiên giấy viết kíp bày
Tam ban trào điển phê ngay cho nàng
Bút sa gà chết rõ ràng
Mưa sầu ướt chiếu lệ tràn đẫm mi
Bốn bề giáp sĩ nể gì
Giựt văng khỏi kiệu bắt quì trước xe
Sắn bìm tùng cả khó che
Phút giây tuyệt mạng gần kề một bên
Rác bèo nước giạt lênh đênh
Ôi thôi đành sóng cuối ghềnh cuốn xuôi
Cồn dâu biển thẳm biến dời
Xót chi sao lạc lưng trời đầu mây
Dùn mình lụa trắng cầm tay
Trời xanh cay độc rã hai lối tình
Đồi cây dặm cát lặng thinh
Ngùi thương nửa kiếp phù sinh má đào
Gò hoang lạnh ngắt bóng lau
Vùi nghiêng chôn sấp mặc dầu gió mưa
Quốc Trung nào hãn sự cơ
Giong cương vừa tới đâu ngờ tai ương
Gươm trần kích chỉa nỏ giương
Đâm ngang sả ngược rộn rang kiếm đao
Cát vương bụi vấy áo bào
Phún vòi máu giội đỏ đầu cỏ sương
Phân minh đen trắng tỏ tường
Kỵ binh sải vó rút đường Thành Đô
Mây vần gió giục sóng xô
Lạnh căm nhạc ngựa bụi mờ đồng hoang
Vọng lâu nom rõ tàn vàng
Phát hồi pháo lịnh trải đàng chiếu hoa
Điếu kiều hào rộng gác qua
Tiếp nghinh xe trận long xa nhập thành
Cắt quân gác đại bản dinh
Đúc rèn khí giới luyện binh làm đầu
Râu mày thỏa mộng cung dâu
Gót Văn bến Vị tìm cầu Tử Nha
Hịch truyền muôn dặm bay qua
Non gần trấn tướng sông xa sáo hàn
1D) Ải Đồng Quan – Gia Thế Họ Châu
Ải Đồng diệu vợi quan san
Đối đầu giặc loạn Khiết Đan trùng trùng
Cột rường danh rạng anh hùng
Phơi gan tuấn kiệt vẫy vùng chiến y
Xông vào lửa cứu nước nguy
Lịnh nghiêm quân sĩ thành trì kim thang
Đường đường chủ soái Thiên Lương
Tài văn đức võ tiếng vang giang hồ
Dọc ngang biển Sở sông Ngô
Ngăn biên ải vững hoàng đô Đường trào
Thông minh thiên bẩm dành trao
Rèn tinh trận pháp luyện làu binh thư
Lẫy lừng muôn trận dưới cờ
Trải ba đời chẳng phai mờ lòng trung
Phước lành âm đức gia phong
Hạ sanh con trưởng má hồng Nam Vân
Hà Châ làng cũ nương thân
Dưỡng nuôi bà nội tảo tần nông tang
Chồng con nhà cửa đã an
Cày sâu cuốc bẳm thanh nhàn thú quê
Thứ hai Mạnh Đạo tên đề
Hồn theo gác khói vẹn thề núi song
Cuối cùng đẻ muộn Trọng Thông
Mày thanh mắt đẹp nối dòng Nho gia
Rồng bay phượng múa tài hoa
Sớm hôm đạo cả bên cha hầu kề
Phòng văn lửa đóm mải mê
Sân Thi nền Lễ đi về sớm trưa
Nghề riêng tao nhã cầm thư
Ban Siêu nét bút Tương Như giọng đàn
Thần cơ diệu toán ai đang
Dưới thong địa lý trên tường thiên văn
Ngọn mây vút mút cánh bằng
Lợi danh rang buộc gạt phăng đâu màng
Hạc đồng nội rộng thênh thang
Mây xanh in dấu mây vàng theo chơn
Ngại gì áo mỏng mền đơn
Trăng trong bầu bạn tiếng đờn sân hiên
Quận châu nức tiếng côn quyền
Tài lành đường kích gia truyền bấy nay
1E) Rước Sứ
Cỏ non sè cánh én bay
Bông đào lấm tấm sương mai trắng ngần
Đua chen trai gái tưng bừng
Lam kiều dẫn lối hội xuân chật đàng
Kết hoa cuối ấp đầu làng
Thiên Lương đoái cảnh ngỗn ngang tấc lòng
Trách người không cạn đục trong
Đua đòi trau lục chuốc hồng mà chi
Hận chung đền báo được gì
Quần điều áo tía pháo đì đùng reo
Nhục vui, vui nhục trăm chiều
Sao chưa thức tỉnh đắm điều mê say
Ủ ê áng sách hương đài
Bỗng đâu có sứ - Thành ngoài bẩm tin
Thay xiêm đổi áo tiếp nghinh
Phân ngôi chủ khách trần tình khúc nôi
Rằng: “Câu răng lạnh hỡ môi
Rủi may vận nước nằm nơi ải Đồng
Trăm năm xin chớ phụ lòng
Giữ gìn hoa gấm thủy chung trọn niềm
Địch kia mở thế gọng kìm
Bủa vây bốn phía nhận chìm Thành Đô
Cẩm Thành đất dựa ban sơ
Kén binh chọn tướng chờ giờ phản công
Ví bằng tay trắng hoàn không
Ngàn năm mòn núi cạn sông còn gì! …”
Lễ bày tiếp chỉ tức thì
Dọn bàn hương án cúi quì nghe qua
Chiếu ban ngự bút giở ra
Long phù ấn tín phương xa gởi về
Truyện rằng: “Đất thảm trời thê
Bụng phơi hùm sấu, lưng kề sói lang
Mồ hôi đẩm áo giáo trường
May ra đánh đổi bước đường thương vong
Sửa sang vách sắt tường đồng
Dàn binh bày trận giao phong tranh cường”
Vó câu lướt cỏ sũng sương
Hoa ngàn trải nhụy đưa hương ngạt ngào
Trướng huỳnh tim lụn dầu hao
Thành ngiêng nước đổ lẽ nào ngủ yên
Một mình trằn trọc gối nghiêng
Thẩn thờ trở gót, khuê triền quạnh mây
Vòm Đông, đêm nuối mộng dài
Lét leo lửa bấc – Hao gầy mắt môi
Lơ mơ ngửa mặt dòm trời
Trán nhăn má cóp - Đổi dời biển dâu
Niềm riêng - Rượu cạn mấy bầu
Trắng canh bạc tóc xua màu xuân xanh
Đêm tàn trống thúc vọng canh
Bồi hồi đếm bước mai đình ngẫn ngơ
Mây hường rựng ngọn núi mờ
Bầu trời xám, vạc lững lờ kêu thương
Bình minh, bươn bả thăng đường
Họp bàn tướng cạnh liệu phương ngăn phòng
Tập tành thao dượt tinh rhông
Cất chòi gác nhặt, rải chông đặc hào
Tuốt trần thép lạnh gươm đao
Ba quân hào khí ào ào như sôi
Sao trời hăm hở nuốt trôi
Không dung lũ hái trái rồi đốn cây
Đặt quân kỳ chánh trong ngoài
Lưới giương bẫy mở rập loài tinh ma
1F) An Lộc Sơn Đánh Đồng Quan
Hận tình tan Mã Ngôi pha
Lộc Sơn huy động trảo nha rửa hờn
Tấn binh đá chạy cát vờn
Thây chồng tối mắt cao hơn đầu người
Vó câu hốt bụi mịt trời
Voi bầy xông lướt lạch ngòi vỡ toang
Trốt bồng, lửa xoáy ải quan
Lù dâng suối thấp, bão đàn nhành cao
Huỳnh hôn tím ngắt mây sầu
Kỵ binh bộ tốt bào hao tranh hành
Giương binh khí múa vuốt nanh
Lung lăng coi dưới mắt mình không ai
Lập lòe lửa đóm ma trơi
Chòm cây lới tắt ẩn rồi hiện ra
Binh triều nhóm bảy tụ ba
Giáo cờ thưa thớt mâu qua ngại ngần
Quân Yên giục ngựa bén chân
Rần rần đuổi giết lính tuần ải quan
Tra roi, cướp lối, chặn đàng
Mây vần vũ nổi, sương vàng cuộn bay
Nửa chừng, rẽ quặt truông mây
Đưa đoàn mao nhãn nạp thây Tần Hồi
Ngựa chồn, áng bước lôi thôi
Dây chằng vướng vít, sóng nhồi mưa tên
Khó lui, chẳng thể tiến lên
Máu loang đỏ giáp tiếng rên thấu trời
Đồng lầy đùa với lửa chơi
Giữa vòng tên đạn – Khóc cười biết sao
Trùng vây chèn kín gươm đao
Lưỡi câu móc sắt dính vào thịt da
Vận xui tưởng đã thoát qua
Đường mòn dẫn lối rừng già gian nan
Chim say lịm giấc sương ngàn
Quạnh hiu lá rụng canh trường cuối thu
Cỏ rơm đương lớp xây cù
Hầm sâu bẩy sập làm mồi giặc An
Thê lương lạnh bước sa tràng
Núp khe gươm tuốt, len tàn tên bay
Bàn cờ thế, phút sa tay
Rớt tòm hố thẳm, chông dài đâm xiên
Đốc quân thị sát trận tiền
Hang beo trỏ giáo, Long tuyền cầm tay
Bập bùng lửa rực trời mây
Thét oai sấm động, ra tài hùng anh
Vai gầy dáng dấp thơ sanh
Áo bào trắng, Bạch Hổ Tinh hiện về
Ngựa hồng giậm cẳng bên khe
Công đầu ắt hẳn đà về tay Châu
Ém hơi nằm chực rừng sâu
Hiệp đồng mai phục đón đầu giăng cây
Siết dồn khóa chặt vòng vây
Xương dồn mương rãnh, hồn hoài cố hương
Vọng canh bóng nguyệt mờ gương
Giáp vàng mũ trụ Thiên Lương thăng đường
Đầm đìa cành muộn đọng sương
Tít xa núi lợt vấn vương đêm dài
Đương cơn lửa đỏ cháy mày
Họp cùng tướng sĩ liệu bày mưu cơ
Nắng hoe hoa cỏ dật dờ
Mây đùn trời thẳm, khói mờ non xanh
Toán quân canh gác vào thành
Báo tin Nhung địch động binh mấy vòng
Bủa vây không lọt mảy long
Nhổ từng rễ cỏ ải Đồng mới nghe
Quân triều thét một lời thề
Gan đồng dạ đá chẳng hề núng nao
Nước non nghĩa nặng tình sâu
Dân đen khổ cục nỡ nào khoanh tay
Trăm viên hổ tướng dững mày
Quyết gìn chánh khí dẫu dài gian nan
Ngọn thành gươm lợp giáo đan
Thiên Lương mão sắt giáp vàng uy nghi
Kích giương mắng chẳng nễ vì
“Bầy sâu lũ bọ biết gì ngỡi nhơn
Tịu tằng với ả Thái Chơn
Rình mò ăn vụng tiên đơn khác gì
Mặt mo giở thói gian phi
Mưu đồ phản nghịch bọn mi một loài
Khá khen bộ vó anh tài
Chồn mang lớp cọp, khéo bày trêu ngươi”
Lộc Sơn gằn giọng cả cười
“Mừng thầm cho đó biết người biết ta
Bạc đầu mỏi gối dùn da
Còn ham quền tước, vinh hoa nhơ hình
Hươu Tần thiên hạ gật mình
Long Cơ dâm đãng bất minh vô tài
Mắt che ngựa chạy đường dài
Ngu trung cam kiếp kẻ cười người chê
Biết điều cởi giáp theo về
Cúi đầu hàng phục đề huề chúa tôi
Diệt Đường ta quả xứng ngôi
Dẹp tan châu quận, thâu rồi hai kinh
Móc mưa rưới xuống sẳn dành
Con sang vợ trọng bất bình nỗi chi?
Ví bằng cạn nghĩ vụn suy
Đồng Quan bình địa một khi san bằng”
Thiên Lương điểm mặt mắng rằng
“Trèo thang cóc muốn lăng nhăng đua đòi
Ngốc như mi cũng dạy đời
Răng thưa môi mỏng bày lời lố lăng
Hang cùng nào biết lễ văn
Luông tuồng cẩu hợp thói gần chim muông
Gian tham ngu ác một xuồng
Đổi ơn làm oán, tìm đường quay lưng
Ta đây trượng ngãi chuộng nhân
Giá trong tiết sạch, nát thân đâu nài
Sá gì chớp giựt mưa bay
Chỉ nguyền sống thác một hai dưới cờ
Về hang ổ, rửa cổ chờ
Binh trời hỏi tội, định giờ phân thây”
Lá vàng ru rẩy hơi may
Nắng chiều úa sắc, trời tây bóng tà
Đầu mây điểm lợt rang pha
Chim hôm chiu chít nhánh sà mặt song
Vượn đơn kêu thảm não lòng
Rã rời thưa thớt trống thùng vọng canh
Gió cuồng rứt lá lìa cành
Đại kỳ gãy tốt, mặt thành đưa tin
“Ô hô! Trời chẳng thương mình
Cung rơi đạn lạc cũng đành mạng căn
Cao dầy nỡ bẻ cánh bằng
Ép người vào cuộc lăng nhăng sắp bày
Kíp truyền tướng sĩ trong ngoài
Sửa sang hầm hố bày khai trận đồ
Chiến trường đã ước hẹn giờ
Nực cười giặc khéo giở trò trẻ con
Nửa đêm pháo lớn nổ dòn
Tường run, sấm động, sóng cồn vượt mây
Mặt thành, ném đá quăng cây
Lửa lan giáp đất, tro bay mịt trời
Nổ ầm quả lựu mấy hồi
Pháo bầy ong nện bời bời bủa quanh
Mở then cửa đột phi hành
Đức Tâm rút soạt hai thanh kiếm trường
Đột xông ngang dọc tranh cường
Chém người như chuối Đơn Dương chẳng tày
lợi Trimh phóng ngựa cửa tây
Điều quân mã kỵ hiệp ngoài Châu Thông
Trùng vây vòng lại siết vòng
Kích gươm loảng xoảng, địch trong giặc ngoài
Đeo tường nhún ngọn thang bay
Sói muông cầy cáo chắp dài giáo lan
Nơi nơi hỗn độn dọc ngang
Hào nào ngăn nổi lớp hàng Phiên binh
Da dê quấn chặt quanh mình
Dao con giắt bụng, lưng thành đu dây
Pháo thần vạn quả đặt ngoài
Đạn như mưa bấc rót ngay xuống thành
Kho lương lửa dậy thình lình
Chống ngăn gắng gượng đua tranh sống còn
Binh triều phút một hao mòn
Tường bay đất sụp lũy đồn tan hoang
Quân Yên ngây máu sa tràng
Nghinh ngang binh khí, rộn ràng nỏ cung
Đuốc rà hang hố lục sùng
Quyết lòng xóa sổ ải Đồng mới thôi
Nặc nồng mùi bốc tanh hôi
Thấy nguy Châu vội phản hồi dinh trung
Giục cha liệu nước cờ cùng
Vượt tầm giáo mác, thoát vòng tử sinh
Sức dung thần khiếp quỉ kinh
Cản quân đuổi gắp liều mình cứu cha
Thiên Lương gót thúc roi tra
Mở ra đường máu tràn qua biển người
Kích quay xẻ gió lưng trời
Rồng thiêng tung sóng giữa vời biển xanh
Bất thần hét tiếng thất thanh
Ôm hông, bão cuốn ghe mành ngửa nghiêng
Châu Thông lướt tới đỡ liền
Xốc bồng lên để ngồi yên ngựa mình
Chật chen lớp lớp tướng binh
Nặng nề bước ngựa hành trình gian nan
Đục trầm, va sắt, chạm vàng
Phóng phi nước đại cướp đàng ruổi giong
Quanh co ngỏ tối mịt mùng
Ngửa tay chẳng thấy – Quân không đuổi dồn
Lách luồn len lỏi truông mòn
Lần men dặm thỏ,dò con suối rừng
Trời Đồng Quan ửng lửa bừng
Tro đùn thành lạnh mắt trừng hờn căm
Máu tuôn thấm áo ướt dầm
Giọt châu dài vắn, khôn cầm đau thương
Ngại ngần rón rén dặm sương
Gà rừng gáy rộ đêm trường lũng xa
Lửng trời, vụt ánh sao sa
Dựa lưng gốc lớn đặt cha tạm ngồi
Mũi lòng, tấc dạ bùi ngùi
Thuốc thầy đâu biết rước mời trị thương
Xé toang vạt áo buộc choàng
Thiên Lương nửa tỉnh nửa dường hôn mê
Khều con má áp tai kề
Phều phào giọng nói giải giề tâm tư
“Đã năm mươi tuổi có dư
Lòng vui làm tướng dưới cờ qui tiên
Một mai phách lạc cửu tuyền
Ngậm cười giữ trọn lời nguyền quân thân”
Nghẹn lời, run rẩy tay chân
Mắt lờ đờ khép, ngưng thần đứt hơi
Tim đau, đầu óc rối bời
Vùi sâu hài cốt lưng đồi Huỳnh Sa
Hỏi chưa cặn kẻ tin nhà
Cội nguồn sóng giạt biết là về đâu?
Ngán thay con tạo cơ cầu
Đất bằng xui hóa biển sâu làm gì?
Rừng hoang cỏ tối rậm rì
Từng cơn gió trút lá vì vèo bay
Núi đồi rờn rợn lạnh vai
Ngôi sao xa lắc cuối trời buồn tanh
Lẻ đơn đèo dốc lặng thinh
Cú sầu điểm một ngồi rình canh thâu
Đi đây nào biết về đâu?
Dặm mây thăm thẳm một màu bao la
Bẽ bàng thay cõi người ta
Trán hằn vất vả, mắt lòa lo âu
Gương Nga xô ngả bóng sầu
Bình minh thoáng điểm hường đầu non Đông
Biển trời khó sánh được công
Hứng hoa, nâng trứng ẳm bồng chắt chiu
Nồi kê quán trọ đìu hiu
Tóc mai tơ mướt, đầu chiều tuyết pha
Cúi đầu lạy giã biệt cha
Thay xiêm đổi áo bôn ba đăng trình
Hang sâu giấu dạng tăm kình
Hòa thân cát bụi, gởi mình gió sương
Bùi Thanh Kiên