Tác giả: Bùi Thanh Kiên
HỒI THỨ SÁU
Cử Binh Hùng, Châu Ngươn Nhung Dẹp Loạn
Lâm Bước Cùng, Sử Triều Nghĩa Thiệt Thân
6A- BÀI BIỂU XUẤT SƯ
Bóng câu thấm thoát qua mành
Gặp tuần đại lễ, tễ khanh ứng hầu
Châu Thông quì giữa sân chầu
“Nước non u ám mây sầu can qua
Âm thầm canh lạnh lệ sa
Trẻ thơ lìa mẹ mất cha muôn ngàn
Giang Nam châu quận đã an
Dưới vui nghề nghiệp, trên quan nhơn từ
Dưỡng quân chin tháng có dư
Xin dưng bài biểu xuất sư bắc bình”.
Bài Biểu Rằng:
“Thần là Châu Thông, được ân tứ
Búa việt cờ mao, đặc nhiệm chinh thảo
Bắc Yên, mạo muội tấu trình, tấc lòng
Mong Thánh Hoàng soi xét.
Thần trộm nghe:
Bốn cõi thái bình,
Muôn nhà lạc nghiệp
Cao Đế chem. rắn Mang Sơn
Dựng nên Hán Thất
Thái Tổ dẹp loạn phản vương,
Xây nghiệp Võ Thang.
Ra quân quét Bắc,
Nổ pháo dẹp Đông.
Giáo khiên ra sức cõi ngoài,
Nghiên bút góp tay triều nội.
Ngọt mưa hòa gió,
Lặng biển trong sông.
Rừng xanh beo cọp mất tăm
Hang thẳm kiến ong giấu dạng.
Thổ Phồn khiếp vía cúi đầu
Tây Hạ mang ơn tha mạng
Trung Thổ lấy khoan dung dạy dỗ,
Ngoại di mong đức độ chở che.
Rồi:
Điên đảo nước non,
Nát tan hoa gấm.
Tài cung kiếm kẻ bọc thây da ngựa,
Khó giập ngọn lửa lừng,
Bầu tâm can người uốn lưỡi trường văn,
Khôn ngăn luồng sóng dữ.
Bọn tàn bạo khó cùng ta chung hợp,
Đức nghĩa nhân sẽ mở vận trùng hưng.
Đèn ân oai soi thấu chốn hang cùng,
Cờ chinh thảo đuổi phăng loài quỉ ác.
Xưa lòng người ly tán,
Mịt mờ không ngọn đuốc soi đường,
Nay hào kiệt hội chầu,
Đằm thắm rưới mốc mưa khắp chốn.
Thần cũng nghe:
Bọn An-Sử lòng tham không đáy,
Bàn tay đen cố vơ vét dân đen,
Đám cùng đinh nỗi khổ khôn cùng,
Mặt trắng vẫn hoàn về tay trắng.
Luật lệ bậy xằng,
Mối giềng nghiêng ngửa.
Bầy dơi chuột tranh giành từng con muỗi,
Giựt của cướp tiền,
Mùi đảnh chung mê muội lũ tham ô,
Tranh danh đoạt lợi.
Quân vô sỉ xa rời phường áo vải,
Kẻ thức thời khinh miệt chốn quyền môn.
Tướng võ có dõng không mưu,
Quan văn non tài ít trí.
Thói đê tiện làm sụp toang nền xã tắc,
Dạ ngu si gây nát bét mối luân thường.
Triều nghi đổ nát,
Cha con cũng cắt đoạn ân tình,
Phong hóa suy đồi,
Thầy tớ cũng nghi ngờ lòng dạ.
Thần nghĩ:
Trường Giang kia đà sóng nổi,
Phụng Thiên nọ ắt lửa giăng
Lũ chồn cheo đà máu nhuộm Động Đình,
Bầy lang sói ắt thây phơi non Thái
Bọn buôn thần bán thánh,
Cơ tận diệt khó trốn khỏi lưới trời,
Lũ dối nước lừa dân,
Gươm biền tru khó thoát qua mạng số.
Khí giận ngất mây tám cõi,
Tiếng than dậy đất mười phương.
Thời trời đã thuận,
Lợi đất có dư.
Thêm nhân tâm hướng cung Bắc người về,
Mừng vận hội gặp non Kỳ phụng gáy
Kẻ tài tuấn chung lo việc nước,
Lưỡi gươm thiêng rạng sáng ngàn sao
Gương hung anh nung nấu lòng quân,
Nét son đỏ lưu truyền muôn thuở.
Cá đã hóa rồng cửa Võ,
Theo tiên vương rải đức ban ơn,
Kình đà kiệt sức biển Đông,
Xướng đại nghĩa cứu đời giúp nước.
Lấy can qua diệt hết lũ tham ô,
Dùng oai đức đánh tan phường phản nghịch.
Rập đầu trình tấu,
Xin Thánh Thượng chuẩn y,
Dưng biểu xuất sư,
Nguyện Hoàng Thiên hộ độ.
Châu Thông cẩn tấu.”
Phán rằng: “Bùn bụi Nghiệp Thành,
Mồ hôi còn đẫm trên manh chiến bào.
Bồi thành đắp lũy đào hào,
Nghỉ ngơi bù đắp chưa bao nhiêu ngày
Vội bày cung cứng giáo dài,
Cực trong lính tráng, khổ ngoài lê dân.”
Tâu rằng: “Thắng lợi tới gần,
Giặc đang túng nước, mười phần nguy nan
Thuận đà, thừa thế đánh tràn
Phá tan hang ổ, diệt đoàn ma ranh.
Chầy ngày, mãi mã chiêu binh,
Sử An lại sức, dễ kình được sao !”
Ngập ngừng, ngẫm nghĩ dài lâu
Bút son phê chuẩn lời tâu giữa triều.
6B- ĐÁNH ẢI ĐỊA ĐẦU SƠN HẢI QUAN
Nhâm Dần (762) vào tiết ngươn tiêu
Binh phân bốn đạo , Châu điều ba quân
Phát tờ lộ bố xa gần
Rao truyền châu quận, tội quân phản loan
Rập rình chèo quế nhặt khoan
Đức Tâm tấn thẳng Hải quan công thành
Chiến thuyền đẩy giạt sóng xanh
Lạc Dương phát pháo hải trình xôn xao
Buồm căng no gió mây cao
Bèo trôi man mác chéo bào phất phơ
Bờ kia xa lắc xa lơ
Sương ôm thành lũy, đèn mờ giăng cây
Dạy rằng: “Phá địch lần nầy
Nghĩa sâu là trong, ơn dày là hơn
Mai kia bão táp dịu cơn
Xóa thù thây đổ, bỏ hờn máu sa
Mười phương thân ái một nhà
Anh em chung mối ruột rà chơn tay
Lấy ơn trả oán mới hay
Hiếu sanh đức ấy sánh tày non cao
Dỗ binh dụ tướng hàng đầu
Chớ nên gây thảm chuốc sầu cho ai
Chỉ dung sức đánh thị oai
Thứ tha kẻ bại, nới tay rộng tình
Đầu giờ Sửu phái kỳ binh
Hành quân mau lẹ chiếm gành phía Nam
Sắc quần màu áo pha chàm
Màn đêm ẩn bóng, sương lam giấu mình
Đốt ngòi hỏa cụ thình lình
Cặp hông lợi dụng địa hình thốc qua
Chiến thuyền đặc nước dàn ra
Thiết đề chặt xích, tấu kha phá rào
Giăng bày trận, chớ đánh vào
Để ta mượn chước Lưu Hầu ngày xưa
Trại binh quạnh quẽ như tờ
Gối đầu triền núi lờ đờ ngủ mê
Tỏa lan giá lạnh bốn bề
Thóp thoi lửa đóm đi về vọng lâu
Lưng trời hơi gió rao rao
Tiếng đâu vẳng gọi mạch sầu hoài hương
- “Thái hàng ngất ngọn mù sương
Lần nương gậy trúc huyên đường ngóng mong”.
Non xa mờ đục chập chồng
Lạ chưa ? Sao sáo Tử Phòng đâu đây ?
Giọt buồn vương vất đầu cây
Đưa cao vút thẳng cung mây mấy từng
Trầm trầm nhịp thở rưng rưng
Nghẹn ngào thổn thức úa vừng trăng quê
Âm thanh đứt nỗi não nề
Lệ pha tiếng nức nở kề áo quan
- “Ai mơ tưởngmộng gác vàng
Phòng không- Ai giấc mơ tàn- lẻ đôi
Đường mê, chinh thú nổi trôi
Không nghe ai nói - Dẫu lời trối trăng
Ruộng vườn vui thú làm ăn
Món ngon đất khách đâu bằng hoắc lê
Cần chi ấm tử vinh thê
Dang lưng trâu ngựa hổ bề thân danh
Dễ gì áo tía lọng xanh
Bôn ba cờ hiệu riêng mình gian nguy
Xông pha thôi thúc dây tì
Tóc râu tê cóng, màu chì môi thâm
Màn mưa trướng cỏ ăn nằm
Chưa tàn binh lửa thây dầm máu loang
Để ai điện ngọc vinh sang
Tìm vui xác thịt giữa ngàn cung phi
Tiệc tùng rượu rót li bì
Biết chăng nước mắt sinh ly kiếp nghèo
Chồng đi biệt vợ gieo neo
Con chiu chít đợi cánh bèo đoàn viên
Phập phòng trong dạ chẳng yên
Lấy gì gở mối ưu phiền cho vơi”.
Khi sâu thẳm lúc xa vời
Len luồn mạch máu nối lời thê lương
Réo cao đồng vọng đoạn trường
Ngân nga phưởng phất giọt buồn chậm rơi
Bơ vơ đá lở sông bồi
Hồn tan sĩ tốt lôi thôi chán chường
Sức đâu giục ngựa cầm cương
Tinh thần nào khiển nổi đường gươm vung
Quân Liêu đầu óc rối bòng
Cờ hàng giương ngọn, bác đòng rời tay
Thâu xong lũy rộng thành dài
Đức Tâm ban lịnh lo ngay chẩn bần
Giúp người tứ cố vô thân
Đồng tiền rá gạo phát phân khắp vùng.
6C- VƯỢT HUỲNH HÀ- ĐÁNH SƠN TÂY
Huỳnh Hà cuồn cuộn về đông
Đên ngày không nghỉ một dòng chảy xuôi
Bóng tà dương mấy độ rồi
Ửng hồng nhuộm cánh mây trôi thuở nào
Xưa nay mấy mặt anh hào
Trăng mờ nước lạnh sóng xao lối mù
Đầyu vơi, thành bại hiền ngu
Giựt mình xương gởi Diêm Phù như không
Ngựa xe giẫm lớp thây chồng
Trận cười điên dại nát lòng lệ khô
Đêm kia bóng tối mơ hồ
Nhắp nhem lửa đóm lô xô sóng gành
Bè lau kết giáo đươn cành
Túi da dê thổi căng phình vượt sông
Che nanh cọp rút móng rồng
Nép mình len hốc đá chông chinh bày
Im lìm dò bước chông gai
Âm u lối lạ lạc loài gót chân
Rừng sâu núp bóng ẩn thân
Chuyển quân đủ số lần lần sẽ toan
Bao vây dùng thế liên hoàn
Phụng hoàng sè cánh dấu đàn diều hâu
Cố đeo bám bắc đầu cầu
Đưa quân thiện chiến đánh vào lũy dinh
Đọ so tài ngạc sức kình
Ngươn Hanh hạ trại đồn binh quanh vùng
Thình lình cát bụi bay tung
Đáng tay ngẫm nghĩ kiết hung thế nào
Rằng: “câu Dĩ dật đãi lao
Thử chơi cho biết vàng thau đêm này
Vụng mưu khôn một ngu hai
Ta nên gài bẫy bắt bầy hươu non
Trò đùa kế mọn trẻ con
Thấp cơ thua trí mất còn sẽ phân
Nằm im khi địch tới gần
Ung dung để giặc tra chân vô tròng
Phục binh hờm sẳn tên đồng
Giương cung nhắm hướng bắn không hẹn giờ
Nặng nề thay phút đợi chờ
Mơ màng mây ngủ, lặng tờ gió hiu
Nửa đêm thành hạ điếu kiều
Điểm ba tướng cạnh, quân điều năm trăm
Bấm nhau cất lạc ngậm tăm
Lướt mình theo gió âm thầm như bay
Nghĩ rằng vất vả đường dài
Quân triều dật dựa ngủ say chẳng phòng
Nào ngờ vườn trống nhà không
Rõ lầm độc kế, rối bồng tim gan
Mồ hôi đẩm áo sảng hoàng
Điền Thanh dáo dác tìm đàng xuất bôn
Chạm tên hú vía hú hồn
Giáo chơm chởm chỉa, người xôn xao tràn
Thí thân gở nước cờ tàn
Hét đoàn mã kỵ dàn ngang đối đầu
Quân triều mác nhọn móc câu
Giựt chơn ngựa chiến đạp nhầu bủa vây
Điền Thanh múa chẳng kịp tay
Cụp đuôi bại tướng, chạy dài hãi kinh
Qua cơn rởn óc rùn mình
Tưởng như từ cõi U Minh hiện về
Lần dò lội suối qua khe
Mon men lối vắng, liệu bề lẻn êm
Chua cay sỏi cứng gót mềm
Cánh bằng gãy, lạc bến đêm sông hồ
Cướp dinh phút hóa thế cô
Bao nhiêu hổ tướng, bấy mồ binh sa
Hẳn chừng nép bóng rừng già
Theo truông Đông Bích ắt qua hiểm nghèo
Hang mây gió cợt thông đèo
Dốc triền cao ngất, trăng treo cuối ghềnh
Đuốc soi bừng pháo nổ rền
Hai đầu gặp địch xuống lên được nào.
A Ngùy nồng khét lửa gào
Phồng chơn than phỏng, sớt đầu tên buông
Trèo đèo bỏ ngựa chạy cuồng
Núp cơn trốt dọc, hùa luồng sóng ngang
Một mình thiên khổ vạn nan
Thân quen có bóng đóm tàn sườn non
Âm u cỏ quạnh sương mòn
Điểm tra sĩ tốt chỉ còn ngót trăm
Lừng danh chiến trận bao năm
Ngỡ mưu cao lại chọn lầm nước đi
Giấc hòe sực tỉnh còn chi
Tờ mờ bóng nguyệt bờ mi lệ nhòa
Trời hừng đông đậm cây xa
Bướm chen lá biếc, chim sà tàn xanh
Dẫn binh hối hả về thành
Thấy quân triều đã gác canh trong ngoài
Vọng lâu, Quang Bật cười dài:
- “Biết thời cơ mới đáng tay anh hùng
Làm trai quên hiếu bỏ trung
Đạp giày nhơn nghĩa, phục tùng lẽ gian
Thẳng tay giáo bạo gươm tàn
Điêu tàn khắp chốn hờn oan ngập đầu
Đường ngay nẻo chánh về mau
Xóa tan ngang trái cơ cầu chiến chinh”
Đáp rằng: “Lỡ bước cơ binh
Vùi thây mấy vạn sanh linh trong thành
Phận ta dầu chết cũng đành
Há đâu tiếc lợi tham danh thói thường!
Đền bù biển máu non xương
Nỗi đau trăm họ bằng phương xử mình”.
Xuống thành lấy lễ tiếp nghinh
- “Khoan dung, đức cả triều đình xưa nay
Ba quân mạo phạm trọng oai
Ta cam thất lễ huynh đài bỏ qua
Rộng tình, lỗi lớn thứ tha
Chuyện xưa như ánh trăng tà sân hiên
Máy trời đưa đẩy nên duyên
Phẩm cao hạnh trọng lòng riêng nể vì
Xin cùng kết nghĩa tương tri
Chung lưng đưa nước qua kỳ long đong”.
6D- ĐẠI QUÂN XUẤT PHÁT TỪ
TẾ NAM – ĐÁNH HÀ BẮC
Dấn thân hang cọp động rồng
Chém thuồng luồng phải lặn dòng nước sâu
Huỳnh Hà dẫu rộng là bao
Thiên San dẫu ngất trời cao mấy trùng
Dễ ngăn cung kiếm tang bồng
Dễ ngăn cánh hộc cánh hồng tung mây
Hịch bay dặm thẳng trời dài
Châu Thông phụng chỉ đặc sai Bắc bình
Trương cờ dẫn ngạc đưa kình,
Bừng bừng hào khí đinh ninh lời nguyền
Đêm ngày ngựa chẳng rời yên,
Bão tràn lũ nổi tới liền Bộc Dương.
Châu rằng: “Ám độ Trần Thương,
Minh tu sạn đạo là đường tấn binh”.
Thành Hà Bắc vững lũy dinh
Đường tơ kẽ tóc giữ gìn khít khao
Tổng binh Văn Mộc to đầu
Quen dùng cặp giản thần sầu quỉ kinh.
Không mưu, chỉ cậy sức mình
Tài ba khiển trận bình bình hạng trung
Hay tin vỗ án đùng đùng
-“Giận bầy chuột bọ vẫy vùng chẳng kiêng
Lũ quan già cóp tật nguyền
Xúi thằng trẻ nít đem xiềng trói beo
Ngu ngơ vô chốn hiểm nghèo
Dại khờ đưa mạng sống treo chỉ mành.
Ta đà chận hẽm Lạc Tinh
Bộ quân giáp sắt, kỳ binh da đồng
Đi qua lối khác không thông
Vực sâu khiếp vía, núi trông liền trời
Bắt hùm đâu phải chuyện chơi
Chẳng ra trò trống, để đời chê bai”.
Vội vàng cung nõ mang vai
Lên yên hối hả dò ngay địch tình
Rải người bám sát địa hình
Giữ thành – Phó tướng Lưu Trình trông coi
Âm u ráng đỏ lạch ngòi
Lừ đừ nước lượn, loi thoi nắng tàn
Xôn xao mã kỵ giăng hàng
Hét rằng: “Mọi rợ nghinh ngang một phồn
Lập đàn làm lễ chiêu hồn
Quan quân mai phục mồ chôn rừng tòng
Đầu hôm cho chí rạng đông
Đu dây đầu núi, lẻn lòng Lạc Tinh
Ba muôn bộ tốt giao chinh
Bộc Dương nát lũy, Đại Danh hạ cờ”
Họ Văn chết điếng sững sờ
Nửa tin, nửa thiệt, nửa ngờ kế gian
Được thua quyết chẳng chịu hàng
Thà lông hồng ném sa tràng lãng quên
Gò cương dồn sức hét rền
Đạp chơn, nõ trắc, mũi tên bay vèo
Thuận đà quay giản bổ theo
Ra đòn sát thủ hiểm nghèo vô song
Lợi Trinh bình thản như không
Nghiêng vai, thúc gót, ngựa lồng tản ngang
Chần chờ mạng dễ gì an
Vút roi Văn Mộc băng ngàn như giông
Tối sầm sâu hút rừng thông
Giặc cùng đuổi miết - Sợ không nẻo về
Lạ chưa tử khí nặng nề
Sụp nghiêng thành quách, thảm thê lũy hào
Trời bày biển mướt màu dâu
Gió nghiêng bêu chiếc đầu lâu Lưu Trình
Quá mau đổi dạng thay hình
Kế mưu gì, địch điều binh như thần
Trốn đâu giờ ? Luống phân vân
Qua vinh quang, hẳn chuốc phần đau thương
Lợi danh đắng vị chán chường
Thây phơi là chặng cuối đường đảnh chung
Trái oan chồng xếp điệp trùng
Bó tay chịu trói ? Khí hùng còn đâu!
Đuốc đèn thoắt phụt lửa cao
Châu Thông giương kích cờ mao gió lồng
- “Rạch kinh cạn sạch, nước ròng
Sấu kình khó thể xuôi dòng ra khơi
Vẫy vùng chỉ tổ mòn hơi
Lượm viên sỏi vụn vá trời ích chi
Thương dân ắt được gặp thì
Thênh thang đường lớn, đại kỳ gió căng”.
Nước rong đê mỏng khó ngăn
Dẫu qua đất hiểm chịt chằng suối khe
Lạch dài kết giáo thay ghe
Đầm lầy bện sáo đương bè ngựa qua
Diều hâu sè móng quắp gà
Giông tràn cánh trái quét qua Hình Đài
Dầu cho lũy chắc tường dày
Chống kình có giỏi một ngày cũng tan
Ùng ùng bỏ ngủ về hàng
Gãy cờ chủ tướng sa tràng tranh phong
Sắp luồn hang bắt giao long
Họp trăm tướng cạnh, Châu Thông luận bàn
Rằng: “Đây nồi gọ Sử An
Chốt đầu ngăn ngọn cuồng lan Yên thành
Điểm qua tướng giặc khét danh
Lão già ma mảnh Hứa Bành đáng ghê,
Làm quan lòng chó dạ dê
Của ăn xới bớt đem về cất riêng
Quân binh hụt gạo thiếu tiền
Tìm tay nội ứng ắt liền nên công
Phải kiêng nể chiếc trụ đồng
Là Trương Trung Chí cháu tông con nòi
Bạn bè dẫu dạ hẹp hòi
Vẫn nêu khí phách, thiệt thòi cùng cam
Đứng đi ăn nói khác phàm
Chuộng nhơn trọng nghĩa không ham tước quyền
Cung là nghiệp, kiếm là duyên
Mong tròn nợ nước ẩn miền non hoang
Để ta đối trận khuyên can
Rạch ròi lời phải, dụ hàng khó chi
Còn bao nhiêu có ra gì
Một bầy tong chốt kéo trì xác tanh
Bình thời múa vút khua nanh
Nạnh nhau lúc khó, tay khoang đứng dòm.
Nhỏ nhen già kén chọn hom
Mặc dân đói khổ cõi còm da xương
Yên trào hết chốn dựa nương
Tài sơ trán thấp lo lường bao lăm
Ngặt vì hơi độc hồ đầm
Hắc tuyền ngăn lối, đen giầm nước trôi.
Nực nồng mùi bốc tanh hôi
Lòng sâu ngập ngực đá lồi tợ dao
Kên kên vần liện trên cao
Quạ bu bờ cát trắng phau xương người.
Tới đây lỡ khóc lỡ cười
Cười ra nước mắt, hổ ngươi giọt sầu”.
Đêm dài lụn bấc trắng đầu
Kế cùng, trí quẩn, ngồi lâu canh chầy
Sương tan lờn lợt màu mây
Có người hành khất chực ngoài của viên.
Mời vào đại sảnh ngay liền,
Phân ngôi chủ khách hàn huyên một hồi.
Rằng: “Ngươn soái chắc quên tôi
Trận Mai Thung cũ, ngọn đồi lau xưa
Chơn liều gió tấp mây đưa
Thân trần dãi nắng dầu mưa bao ngày”.
Châu rằng : “Đôi ngả phân tay
Quê xưa trở gót rủi may ít nhiều
Cớ sao cơ cực đến điều
Lưng trời tia chớp sớm chiều khác xa
Ai xui chơn chậm mắt lòa
Ai xui tháng sáu tuyết sa mất rồi!
Ai xui doi lở vịnh bồi
Mảnh đời ngang trái – áo sồi quần gai!”
Đồng rằng: “Con tạo sắp bày
Mẹ già lánh tục hạc bay non Bồng
Vai gầy oằn nặng long đong
Nhớ con, mỏi đợi mòn trông lệ mờ
Trở trời trái gió bất ngờ
Lưng cơm vùa nước biết nhờ cậy ai
Mấy năm đói kém dằng dai
Bạch đồng nương rẫy quận ngoài thành trong
Cầm hơi, một hột cũng không
Góp gom thóc lúa gánh gồng nộp giao
Phao tôi liên kết binh trào
Bốn năm giam nhốt nhà lao nhục hình
Hại cho đui tối đã đành
Tịch thâu của cải công trình bao năm
Nương thân cát vẩn bụi lầm
Ăn xin xuôi ngược ruột tằm xót xa
Lang thang, đình miểu là nhà
Ổ rơm ngủ tối, mò ra sáng ngày
Đại Danh dẫn tới Hình Đài
Hiểm nguy đã lắm chông gai cũng nhiều
Suối đen chớ vội qua liều
Cầu phao phải bắc để điều quân sang
Ngọn nguồn phát tự núi hoang,
Qua truông Thất Bổn tới ngàn Vong Nguyên
Đôi bờ cây độc mọc liền
Lá rơi thúi nước đen tuyền mực pha
Vâ tâm để thấm vào da
Tổn thương tạng phủ, hàn tà nhập vô
Ba ngày mắc chứng thũng phù
Xanh xao huỳnh đản, mắt mù tay run
Qua bờ gặp mạch giếng phun
Rịn từ khe đá vô cùng mát trong
Trong binh tật ách phải phòng
Gội đầu tắm giặt cho lòng được yên
Người gọi suối Giác Duyên
Giải trừ oan trái ưu phiền nhơn gian
Ngày thường lòng lạch khô khan
Trăng tròn nước dẫy chảy tràn minh mông
Thượng nguồn có cánh rừng tòng
Đường đi tắt nối lòng vòng ngách truông
Mạng giao rắn rít chim muông
Đu dây chuyền ngọn leo luồn vượt qua
Kỳ binh phục sẳn ngoài xa
Dao con giắt bụng, cung ngà cầm tay
Đừng gây tiếng động mới hay
Hạ cây hàn suối đêm ngày cho xong”.
Châu rằng: “Đa tạ tình nồng
Nắng lâu nay được ngày ròng rã mưa”.
Thương người gió bụi sớm trưa,
Gót nương gậy trúc, bước lừa đá cây
Châu Thông muốn giúp, ép nài
Vu Đồng giữ mực một hai chối từ.
6E- VƯỢT HẮC TUYỀN –
DÙNG BÁT TRẬN ĐỒ BẮT SỬ TRIỀU NGHĨA
Tên đồng xé gió truyền thơ
Định nơi đuổi giặc, hẹn giờ chuyển quân
Giông đưa, bão nổi, mây vần
Chẹn non Thương Đãng, phục chân Hình Đài
Châu rằng: “Sử đã chạy dài
Đất cùng cố thủ chờ ngày tiêu vong
Còn đây lũy sắt tường đồng
Ra oai chẳng lợi, tấn công chẳng thành
Dịu mềm, khoan nhặt điều binh
Khi lôi thôi tới, lúc trùng trình lui.
Vải cơm, giăng bẫy đập ruồi
Bắt hùm – đã nắm chặt đuôi - khó gì
Lịnh ra, phải cất mình đi,
Đúng thời xung trận, kịp khi đánh thành”.
Tơ căng, càng lúc càng mành
Vỗ tay sấm động tan tành Ngư Dương
Vồ mồi, sè cánh đại bàng
Cờ bay gió lộng, liên hoàn đưa quân
Yên binh yếu kém mười phần,
Phơi kì đìa rọt, tinh thần rã tan
Hạ gươm xếp giáp đầu hàng,
Mộng Nam Kha, giấc kê vàng còn đâu.
Chần chờ, ắt rụng mất đầu,
Sử càn bão lửa bôn đào cửa Tây.
Lờ mờ ẩn hiện rừng cây,
Lô nhô lính tráng phục ngoài Thương San
Hận cừu gặp gỡ giữa đàn
Vân Anh chỉ kiếm hiên ngang trận tiền
- “Bàn cờ thế, chiếm nước tiên
Thủ, công quá dở mất liền ngựa xe.
Khuyết luôn tượng đỡ sĩ che
Về cung ông tướng rụt rè một thân
Xưa kia, ỷ thế cậy thần
Bẻ sừng tê giác, rút gân thuồng luồng.
Giờ đây, ngựa giẫm bóng suông
Mưa đi mờ mắt giọt buồn cô đơn
Tránh sao được lẽ tuần hườn
Hung tàn đổi nghĩa thay nhơn đặng nào
Luật trời quả rất nhiệm mầu,
Lừa thầy phản bạn cất đầu chẳng lên.
Mấy đời bá đạo vững bền,
Ai cho lang sói nằm trên chiếu ngà ?”.
Châu Thông giong ngựa băng ra,
Âm dương hai kiếm lượn qua một vòng,
Cứng mềm lui tới thủ công
Hoa bay ửng sắc cầu vòng tỏa lan.
Êm êm suối hát thong đàn
Ghê tai, rít gió reo ngàn tên buông
Dàn giăng bão giựt mưa tuôn,
Bao tròn khép kín, trốt luồn hang mây.
Sọ đầu bêu ở nơi nầy
Chỗ kia, xác đãi chim bầy rỉa xương
Quay ngang, Sử vội cướp đường
Băng càn nước rút, bụi hường mù bay
Bóng in bờ cát trải dài,
Thoắt còn chấm nhỏ ven mây ráng tà
Chau mày, nàng vội hỏi qua:
- “Sao không trống giục quân nà rượt theo ?”.
Châu rằng: “Mạng sợi tóc treo,
Gươm vàng giết chuột, hiểm nghèo có khi
Kiến bò miệng tộ lo gì
Phục binh tóm giải đơn trì nay mai
Ngọa Long bát trận đã bày
Bấm tay cửa tử chánh đoài Thương San
Rừng tòng độc đạo xuyên ngang
Không qua lối đó lên ngàn được đâu.
Móc mồi, thả lưới giăng câu
Vuốt râu chờ cọp, hờm lao đâm hùm”.
Xuống yên Sử lách chen lùm
Gai đâm xễ gót, lưng khum vạch đường.
Chạnh lòng bi thảm cảm thương,
Đất chìm biển nổị gẫm dường chiêm bao
Thình lình, lũng thấp đồi cao
Ầm ầm đá chuyển, ào ào cây rung
Dấn thân đất hiểm đường cùng,
Xông pha gắng gượng, vẫy vùng rủi may
Khắp nơi, binh bố trận bày
Nẻo đi phút bỗng đổi thay khó lường.
Phong vân xà điểu bốn phương
Biến hình đổi thế, cản đường, đuổi, vây
Búa vung mỏi rụng cánh tay,
Tư bề rạng sắc cờ bay người tràn.
Liều mình phóng ngựa hướng Càn,
Dưới cờ Huyền Võ pháo ran tên vèo
Biết lâm tình ngặt cảnh nghèo,
Giục bon hướng Chấn, băng đèo đào sanh.
Rừng xanh rơi cội rụng canh,
Ngọn Thanh Lonh hiện, Ngươn Hanh đứng chờ
Sử dường nửa tỉnh nửa mơ,
Đường mê vía lạc, sững sờ khách say.
Ngước lên tốc thẳng non Đoài,
Đại kỳ Bạch Hổ, gió Tây thổi lồng
Đoàn quân giáp trắng trùng trùng,
Khí xô nghiêng núi, búa đồng nặng tay
Lao dài phóng tới như bay,
Gươm lia mất mật, kích quay lạnh hồn.
Vó câu Triều Nghĩa dập dồn,
Chạy về Nam nhạc bảo tồn mạng căn.
Rầm rầm đá đổ cây lăn,
Đồi cao hóa vực, đất bằng sóng xô.
Cờ Châu tước cắm giữa gò,
Giáp hồng triền núi khó dò nẻo thong
Quẩn quanh quanh quẩn lòng vòng,
Đánh liều vô giữa - đục trong chẳng màng.
Đoàn quân rặc chiến bào vàng
Đức Tâm xuống lịnh hàng ngang đối đầu
Bốn phương gai rắp đường rào
Sục sôi nước lửa thét gào bão giông.
Sấu kình ngòi lạch cạn dòng,
Dễ gì luồn lách thoát vòng kiếm đao.
Cử Binh Hùng, Châu Ngươn Nhung Dẹp Loạn
Lâm Bước Cùng, Sử Triều Nghĩa Thiệt Thân
6A- BÀI BIỂU XUẤT SƯ
Bóng câu thấm thoát qua mành
Gặp tuần đại lễ, tễ khanh ứng hầu
Châu Thông quì giữa sân chầu
“Nước non u ám mây sầu can qua
Âm thầm canh lạnh lệ sa
Trẻ thơ lìa mẹ mất cha muôn ngàn
Giang Nam châu quận đã an
Dưới vui nghề nghiệp, trên quan nhơn từ
Dưỡng quân chin tháng có dư
Xin dưng bài biểu xuất sư bắc bình”.
Bài Biểu Rằng:
“Thần là Châu Thông, được ân tứ
Búa việt cờ mao, đặc nhiệm chinh thảo
Bắc Yên, mạo muội tấu trình, tấc lòng
Mong Thánh Hoàng soi xét.
Thần trộm nghe:
Bốn cõi thái bình,
Muôn nhà lạc nghiệp
Cao Đế chem. rắn Mang Sơn
Dựng nên Hán Thất
Thái Tổ dẹp loạn phản vương,
Xây nghiệp Võ Thang.
Ra quân quét Bắc,
Nổ pháo dẹp Đông.
Giáo khiên ra sức cõi ngoài,
Nghiên bút góp tay triều nội.
Ngọt mưa hòa gió,
Lặng biển trong sông.
Rừng xanh beo cọp mất tăm
Hang thẳm kiến ong giấu dạng.
Thổ Phồn khiếp vía cúi đầu
Tây Hạ mang ơn tha mạng
Trung Thổ lấy khoan dung dạy dỗ,
Ngoại di mong đức độ chở che.
Rồi:
Điên đảo nước non,
Nát tan hoa gấm.
Tài cung kiếm kẻ bọc thây da ngựa,
Khó giập ngọn lửa lừng,
Bầu tâm can người uốn lưỡi trường văn,
Khôn ngăn luồng sóng dữ.
Bọn tàn bạo khó cùng ta chung hợp,
Đức nghĩa nhân sẽ mở vận trùng hưng.
Đèn ân oai soi thấu chốn hang cùng,
Cờ chinh thảo đuổi phăng loài quỉ ác.
Xưa lòng người ly tán,
Mịt mờ không ngọn đuốc soi đường,
Nay hào kiệt hội chầu,
Đằm thắm rưới mốc mưa khắp chốn.
Thần cũng nghe:
Bọn An-Sử lòng tham không đáy,
Bàn tay đen cố vơ vét dân đen,
Đám cùng đinh nỗi khổ khôn cùng,
Mặt trắng vẫn hoàn về tay trắng.
Luật lệ bậy xằng,
Mối giềng nghiêng ngửa.
Bầy dơi chuột tranh giành từng con muỗi,
Giựt của cướp tiền,
Mùi đảnh chung mê muội lũ tham ô,
Tranh danh đoạt lợi.
Quân vô sỉ xa rời phường áo vải,
Kẻ thức thời khinh miệt chốn quyền môn.
Tướng võ có dõng không mưu,
Quan văn non tài ít trí.
Thói đê tiện làm sụp toang nền xã tắc,
Dạ ngu si gây nát bét mối luân thường.
Triều nghi đổ nát,
Cha con cũng cắt đoạn ân tình,
Phong hóa suy đồi,
Thầy tớ cũng nghi ngờ lòng dạ.
Thần nghĩ:
Trường Giang kia đà sóng nổi,
Phụng Thiên nọ ắt lửa giăng
Lũ chồn cheo đà máu nhuộm Động Đình,
Bầy lang sói ắt thây phơi non Thái
Bọn buôn thần bán thánh,
Cơ tận diệt khó trốn khỏi lưới trời,
Lũ dối nước lừa dân,
Gươm biền tru khó thoát qua mạng số.
Khí giận ngất mây tám cõi,
Tiếng than dậy đất mười phương.
Thời trời đã thuận,
Lợi đất có dư.
Thêm nhân tâm hướng cung Bắc người về,
Mừng vận hội gặp non Kỳ phụng gáy
Kẻ tài tuấn chung lo việc nước,
Lưỡi gươm thiêng rạng sáng ngàn sao
Gương hung anh nung nấu lòng quân,
Nét son đỏ lưu truyền muôn thuở.
Cá đã hóa rồng cửa Võ,
Theo tiên vương rải đức ban ơn,
Kình đà kiệt sức biển Đông,
Xướng đại nghĩa cứu đời giúp nước.
Lấy can qua diệt hết lũ tham ô,
Dùng oai đức đánh tan phường phản nghịch.
Rập đầu trình tấu,
Xin Thánh Thượng chuẩn y,
Dưng biểu xuất sư,
Nguyện Hoàng Thiên hộ độ.
Châu Thông cẩn tấu.”
Phán rằng: “Bùn bụi Nghiệp Thành,
Mồ hôi còn đẫm trên manh chiến bào.
Bồi thành đắp lũy đào hào,
Nghỉ ngơi bù đắp chưa bao nhiêu ngày
Vội bày cung cứng giáo dài,
Cực trong lính tráng, khổ ngoài lê dân.”
Tâu rằng: “Thắng lợi tới gần,
Giặc đang túng nước, mười phần nguy nan
Thuận đà, thừa thế đánh tràn
Phá tan hang ổ, diệt đoàn ma ranh.
Chầy ngày, mãi mã chiêu binh,
Sử An lại sức, dễ kình được sao !”
Ngập ngừng, ngẫm nghĩ dài lâu
Bút son phê chuẩn lời tâu giữa triều.
6B- ĐÁNH ẢI ĐỊA ĐẦU SƠN HẢI QUAN
Nhâm Dần (762) vào tiết ngươn tiêu
Binh phân bốn đạo , Châu điều ba quân
Phát tờ lộ bố xa gần
Rao truyền châu quận, tội quân phản loan
Rập rình chèo quế nhặt khoan
Đức Tâm tấn thẳng Hải quan công thành
Chiến thuyền đẩy giạt sóng xanh
Lạc Dương phát pháo hải trình xôn xao
Buồm căng no gió mây cao
Bèo trôi man mác chéo bào phất phơ
Bờ kia xa lắc xa lơ
Sương ôm thành lũy, đèn mờ giăng cây
Dạy rằng: “Phá địch lần nầy
Nghĩa sâu là trong, ơn dày là hơn
Mai kia bão táp dịu cơn
Xóa thù thây đổ, bỏ hờn máu sa
Mười phương thân ái một nhà
Anh em chung mối ruột rà chơn tay
Lấy ơn trả oán mới hay
Hiếu sanh đức ấy sánh tày non cao
Dỗ binh dụ tướng hàng đầu
Chớ nên gây thảm chuốc sầu cho ai
Chỉ dung sức đánh thị oai
Thứ tha kẻ bại, nới tay rộng tình
Đầu giờ Sửu phái kỳ binh
Hành quân mau lẹ chiếm gành phía Nam
Sắc quần màu áo pha chàm
Màn đêm ẩn bóng, sương lam giấu mình
Đốt ngòi hỏa cụ thình lình
Cặp hông lợi dụng địa hình thốc qua
Chiến thuyền đặc nước dàn ra
Thiết đề chặt xích, tấu kha phá rào
Giăng bày trận, chớ đánh vào
Để ta mượn chước Lưu Hầu ngày xưa
Trại binh quạnh quẽ như tờ
Gối đầu triền núi lờ đờ ngủ mê
Tỏa lan giá lạnh bốn bề
Thóp thoi lửa đóm đi về vọng lâu
Lưng trời hơi gió rao rao
Tiếng đâu vẳng gọi mạch sầu hoài hương
- “Thái hàng ngất ngọn mù sương
Lần nương gậy trúc huyên đường ngóng mong”.
Non xa mờ đục chập chồng
Lạ chưa ? Sao sáo Tử Phòng đâu đây ?
Giọt buồn vương vất đầu cây
Đưa cao vút thẳng cung mây mấy từng
Trầm trầm nhịp thở rưng rưng
Nghẹn ngào thổn thức úa vừng trăng quê
Âm thanh đứt nỗi não nề
Lệ pha tiếng nức nở kề áo quan
- “Ai mơ tưởngmộng gác vàng
Phòng không- Ai giấc mơ tàn- lẻ đôi
Đường mê, chinh thú nổi trôi
Không nghe ai nói - Dẫu lời trối trăng
Ruộng vườn vui thú làm ăn
Món ngon đất khách đâu bằng hoắc lê
Cần chi ấm tử vinh thê
Dang lưng trâu ngựa hổ bề thân danh
Dễ gì áo tía lọng xanh
Bôn ba cờ hiệu riêng mình gian nguy
Xông pha thôi thúc dây tì
Tóc râu tê cóng, màu chì môi thâm
Màn mưa trướng cỏ ăn nằm
Chưa tàn binh lửa thây dầm máu loang
Để ai điện ngọc vinh sang
Tìm vui xác thịt giữa ngàn cung phi
Tiệc tùng rượu rót li bì
Biết chăng nước mắt sinh ly kiếp nghèo
Chồng đi biệt vợ gieo neo
Con chiu chít đợi cánh bèo đoàn viên
Phập phòng trong dạ chẳng yên
Lấy gì gở mối ưu phiền cho vơi”.
Khi sâu thẳm lúc xa vời
Len luồn mạch máu nối lời thê lương
Réo cao đồng vọng đoạn trường
Ngân nga phưởng phất giọt buồn chậm rơi
Bơ vơ đá lở sông bồi
Hồn tan sĩ tốt lôi thôi chán chường
Sức đâu giục ngựa cầm cương
Tinh thần nào khiển nổi đường gươm vung
Quân Liêu đầu óc rối bòng
Cờ hàng giương ngọn, bác đòng rời tay
Thâu xong lũy rộng thành dài
Đức Tâm ban lịnh lo ngay chẩn bần
Giúp người tứ cố vô thân
Đồng tiền rá gạo phát phân khắp vùng.
6C- VƯỢT HUỲNH HÀ- ĐÁNH SƠN TÂY
Huỳnh Hà cuồn cuộn về đông
Đên ngày không nghỉ một dòng chảy xuôi
Bóng tà dương mấy độ rồi
Ửng hồng nhuộm cánh mây trôi thuở nào
Xưa nay mấy mặt anh hào
Trăng mờ nước lạnh sóng xao lối mù
Đầyu vơi, thành bại hiền ngu
Giựt mình xương gởi Diêm Phù như không
Ngựa xe giẫm lớp thây chồng
Trận cười điên dại nát lòng lệ khô
Đêm kia bóng tối mơ hồ
Nhắp nhem lửa đóm lô xô sóng gành
Bè lau kết giáo đươn cành
Túi da dê thổi căng phình vượt sông
Che nanh cọp rút móng rồng
Nép mình len hốc đá chông chinh bày
Im lìm dò bước chông gai
Âm u lối lạ lạc loài gót chân
Rừng sâu núp bóng ẩn thân
Chuyển quân đủ số lần lần sẽ toan
Bao vây dùng thế liên hoàn
Phụng hoàng sè cánh dấu đàn diều hâu
Cố đeo bám bắc đầu cầu
Đưa quân thiện chiến đánh vào lũy dinh
Đọ so tài ngạc sức kình
Ngươn Hanh hạ trại đồn binh quanh vùng
Thình lình cát bụi bay tung
Đáng tay ngẫm nghĩ kiết hung thế nào
Rằng: “câu Dĩ dật đãi lao
Thử chơi cho biết vàng thau đêm này
Vụng mưu khôn một ngu hai
Ta nên gài bẫy bắt bầy hươu non
Trò đùa kế mọn trẻ con
Thấp cơ thua trí mất còn sẽ phân
Nằm im khi địch tới gần
Ung dung để giặc tra chân vô tròng
Phục binh hờm sẳn tên đồng
Giương cung nhắm hướng bắn không hẹn giờ
Nặng nề thay phút đợi chờ
Mơ màng mây ngủ, lặng tờ gió hiu
Nửa đêm thành hạ điếu kiều
Điểm ba tướng cạnh, quân điều năm trăm
Bấm nhau cất lạc ngậm tăm
Lướt mình theo gió âm thầm như bay
Nghĩ rằng vất vả đường dài
Quân triều dật dựa ngủ say chẳng phòng
Nào ngờ vườn trống nhà không
Rõ lầm độc kế, rối bồng tim gan
Mồ hôi đẩm áo sảng hoàng
Điền Thanh dáo dác tìm đàng xuất bôn
Chạm tên hú vía hú hồn
Giáo chơm chởm chỉa, người xôn xao tràn
Thí thân gở nước cờ tàn
Hét đoàn mã kỵ dàn ngang đối đầu
Quân triều mác nhọn móc câu
Giựt chơn ngựa chiến đạp nhầu bủa vây
Điền Thanh múa chẳng kịp tay
Cụp đuôi bại tướng, chạy dài hãi kinh
Qua cơn rởn óc rùn mình
Tưởng như từ cõi U Minh hiện về
Lần dò lội suối qua khe
Mon men lối vắng, liệu bề lẻn êm
Chua cay sỏi cứng gót mềm
Cánh bằng gãy, lạc bến đêm sông hồ
Cướp dinh phút hóa thế cô
Bao nhiêu hổ tướng, bấy mồ binh sa
Hẳn chừng nép bóng rừng già
Theo truông Đông Bích ắt qua hiểm nghèo
Hang mây gió cợt thông đèo
Dốc triền cao ngất, trăng treo cuối ghềnh
Đuốc soi bừng pháo nổ rền
Hai đầu gặp địch xuống lên được nào.
A Ngùy nồng khét lửa gào
Phồng chơn than phỏng, sớt đầu tên buông
Trèo đèo bỏ ngựa chạy cuồng
Núp cơn trốt dọc, hùa luồng sóng ngang
Một mình thiên khổ vạn nan
Thân quen có bóng đóm tàn sườn non
Âm u cỏ quạnh sương mòn
Điểm tra sĩ tốt chỉ còn ngót trăm
Lừng danh chiến trận bao năm
Ngỡ mưu cao lại chọn lầm nước đi
Giấc hòe sực tỉnh còn chi
Tờ mờ bóng nguyệt bờ mi lệ nhòa
Trời hừng đông đậm cây xa
Bướm chen lá biếc, chim sà tàn xanh
Dẫn binh hối hả về thành
Thấy quân triều đã gác canh trong ngoài
Vọng lâu, Quang Bật cười dài:
- “Biết thời cơ mới đáng tay anh hùng
Làm trai quên hiếu bỏ trung
Đạp giày nhơn nghĩa, phục tùng lẽ gian
Thẳng tay giáo bạo gươm tàn
Điêu tàn khắp chốn hờn oan ngập đầu
Đường ngay nẻo chánh về mau
Xóa tan ngang trái cơ cầu chiến chinh”
Đáp rằng: “Lỡ bước cơ binh
Vùi thây mấy vạn sanh linh trong thành
Phận ta dầu chết cũng đành
Há đâu tiếc lợi tham danh thói thường!
Đền bù biển máu non xương
Nỗi đau trăm họ bằng phương xử mình”.
Xuống thành lấy lễ tiếp nghinh
- “Khoan dung, đức cả triều đình xưa nay
Ba quân mạo phạm trọng oai
Ta cam thất lễ huynh đài bỏ qua
Rộng tình, lỗi lớn thứ tha
Chuyện xưa như ánh trăng tà sân hiên
Máy trời đưa đẩy nên duyên
Phẩm cao hạnh trọng lòng riêng nể vì
Xin cùng kết nghĩa tương tri
Chung lưng đưa nước qua kỳ long đong”.
6D- ĐẠI QUÂN XUẤT PHÁT TỪ
TẾ NAM – ĐÁNH HÀ BẮC
Dấn thân hang cọp động rồng
Chém thuồng luồng phải lặn dòng nước sâu
Huỳnh Hà dẫu rộng là bao
Thiên San dẫu ngất trời cao mấy trùng
Dễ ngăn cung kiếm tang bồng
Dễ ngăn cánh hộc cánh hồng tung mây
Hịch bay dặm thẳng trời dài
Châu Thông phụng chỉ đặc sai Bắc bình
Trương cờ dẫn ngạc đưa kình,
Bừng bừng hào khí đinh ninh lời nguyền
Đêm ngày ngựa chẳng rời yên,
Bão tràn lũ nổi tới liền Bộc Dương.
Châu rằng: “Ám độ Trần Thương,
Minh tu sạn đạo là đường tấn binh”.
Thành Hà Bắc vững lũy dinh
Đường tơ kẽ tóc giữ gìn khít khao
Tổng binh Văn Mộc to đầu
Quen dùng cặp giản thần sầu quỉ kinh.
Không mưu, chỉ cậy sức mình
Tài ba khiển trận bình bình hạng trung
Hay tin vỗ án đùng đùng
-“Giận bầy chuột bọ vẫy vùng chẳng kiêng
Lũ quan già cóp tật nguyền
Xúi thằng trẻ nít đem xiềng trói beo
Ngu ngơ vô chốn hiểm nghèo
Dại khờ đưa mạng sống treo chỉ mành.
Ta đà chận hẽm Lạc Tinh
Bộ quân giáp sắt, kỳ binh da đồng
Đi qua lối khác không thông
Vực sâu khiếp vía, núi trông liền trời
Bắt hùm đâu phải chuyện chơi
Chẳng ra trò trống, để đời chê bai”.
Vội vàng cung nõ mang vai
Lên yên hối hả dò ngay địch tình
Rải người bám sát địa hình
Giữ thành – Phó tướng Lưu Trình trông coi
Âm u ráng đỏ lạch ngòi
Lừ đừ nước lượn, loi thoi nắng tàn
Xôn xao mã kỵ giăng hàng
Hét rằng: “Mọi rợ nghinh ngang một phồn
Lập đàn làm lễ chiêu hồn
Quan quân mai phục mồ chôn rừng tòng
Đầu hôm cho chí rạng đông
Đu dây đầu núi, lẻn lòng Lạc Tinh
Ba muôn bộ tốt giao chinh
Bộc Dương nát lũy, Đại Danh hạ cờ”
Họ Văn chết điếng sững sờ
Nửa tin, nửa thiệt, nửa ngờ kế gian
Được thua quyết chẳng chịu hàng
Thà lông hồng ném sa tràng lãng quên
Gò cương dồn sức hét rền
Đạp chơn, nõ trắc, mũi tên bay vèo
Thuận đà quay giản bổ theo
Ra đòn sát thủ hiểm nghèo vô song
Lợi Trinh bình thản như không
Nghiêng vai, thúc gót, ngựa lồng tản ngang
Chần chờ mạng dễ gì an
Vút roi Văn Mộc băng ngàn như giông
Tối sầm sâu hút rừng thông
Giặc cùng đuổi miết - Sợ không nẻo về
Lạ chưa tử khí nặng nề
Sụp nghiêng thành quách, thảm thê lũy hào
Trời bày biển mướt màu dâu
Gió nghiêng bêu chiếc đầu lâu Lưu Trình
Quá mau đổi dạng thay hình
Kế mưu gì, địch điều binh như thần
Trốn đâu giờ ? Luống phân vân
Qua vinh quang, hẳn chuốc phần đau thương
Lợi danh đắng vị chán chường
Thây phơi là chặng cuối đường đảnh chung
Trái oan chồng xếp điệp trùng
Bó tay chịu trói ? Khí hùng còn đâu!
Đuốc đèn thoắt phụt lửa cao
Châu Thông giương kích cờ mao gió lồng
- “Rạch kinh cạn sạch, nước ròng
Sấu kình khó thể xuôi dòng ra khơi
Vẫy vùng chỉ tổ mòn hơi
Lượm viên sỏi vụn vá trời ích chi
Thương dân ắt được gặp thì
Thênh thang đường lớn, đại kỳ gió căng”.
Nước rong đê mỏng khó ngăn
Dẫu qua đất hiểm chịt chằng suối khe
Lạch dài kết giáo thay ghe
Đầm lầy bện sáo đương bè ngựa qua
Diều hâu sè móng quắp gà
Giông tràn cánh trái quét qua Hình Đài
Dầu cho lũy chắc tường dày
Chống kình có giỏi một ngày cũng tan
Ùng ùng bỏ ngủ về hàng
Gãy cờ chủ tướng sa tràng tranh phong
Sắp luồn hang bắt giao long
Họp trăm tướng cạnh, Châu Thông luận bàn
Rằng: “Đây nồi gọ Sử An
Chốt đầu ngăn ngọn cuồng lan Yên thành
Điểm qua tướng giặc khét danh
Lão già ma mảnh Hứa Bành đáng ghê,
Làm quan lòng chó dạ dê
Của ăn xới bớt đem về cất riêng
Quân binh hụt gạo thiếu tiền
Tìm tay nội ứng ắt liền nên công
Phải kiêng nể chiếc trụ đồng
Là Trương Trung Chí cháu tông con nòi
Bạn bè dẫu dạ hẹp hòi
Vẫn nêu khí phách, thiệt thòi cùng cam
Đứng đi ăn nói khác phàm
Chuộng nhơn trọng nghĩa không ham tước quyền
Cung là nghiệp, kiếm là duyên
Mong tròn nợ nước ẩn miền non hoang
Để ta đối trận khuyên can
Rạch ròi lời phải, dụ hàng khó chi
Còn bao nhiêu có ra gì
Một bầy tong chốt kéo trì xác tanh
Bình thời múa vút khua nanh
Nạnh nhau lúc khó, tay khoang đứng dòm.
Nhỏ nhen già kén chọn hom
Mặc dân đói khổ cõi còm da xương
Yên trào hết chốn dựa nương
Tài sơ trán thấp lo lường bao lăm
Ngặt vì hơi độc hồ đầm
Hắc tuyền ngăn lối, đen giầm nước trôi.
Nực nồng mùi bốc tanh hôi
Lòng sâu ngập ngực đá lồi tợ dao
Kên kên vần liện trên cao
Quạ bu bờ cát trắng phau xương người.
Tới đây lỡ khóc lỡ cười
Cười ra nước mắt, hổ ngươi giọt sầu”.
Đêm dài lụn bấc trắng đầu
Kế cùng, trí quẩn, ngồi lâu canh chầy
Sương tan lờn lợt màu mây
Có người hành khất chực ngoài của viên.
Mời vào đại sảnh ngay liền,
Phân ngôi chủ khách hàn huyên một hồi.
Rằng: “Ngươn soái chắc quên tôi
Trận Mai Thung cũ, ngọn đồi lau xưa
Chơn liều gió tấp mây đưa
Thân trần dãi nắng dầu mưa bao ngày”.
Châu rằng : “Đôi ngả phân tay
Quê xưa trở gót rủi may ít nhiều
Cớ sao cơ cực đến điều
Lưng trời tia chớp sớm chiều khác xa
Ai xui chơn chậm mắt lòa
Ai xui tháng sáu tuyết sa mất rồi!
Ai xui doi lở vịnh bồi
Mảnh đời ngang trái – áo sồi quần gai!”
Đồng rằng: “Con tạo sắp bày
Mẹ già lánh tục hạc bay non Bồng
Vai gầy oằn nặng long đong
Nhớ con, mỏi đợi mòn trông lệ mờ
Trở trời trái gió bất ngờ
Lưng cơm vùa nước biết nhờ cậy ai
Mấy năm đói kém dằng dai
Bạch đồng nương rẫy quận ngoài thành trong
Cầm hơi, một hột cũng không
Góp gom thóc lúa gánh gồng nộp giao
Phao tôi liên kết binh trào
Bốn năm giam nhốt nhà lao nhục hình
Hại cho đui tối đã đành
Tịch thâu của cải công trình bao năm
Nương thân cát vẩn bụi lầm
Ăn xin xuôi ngược ruột tằm xót xa
Lang thang, đình miểu là nhà
Ổ rơm ngủ tối, mò ra sáng ngày
Đại Danh dẫn tới Hình Đài
Hiểm nguy đã lắm chông gai cũng nhiều
Suối đen chớ vội qua liều
Cầu phao phải bắc để điều quân sang
Ngọn nguồn phát tự núi hoang,
Qua truông Thất Bổn tới ngàn Vong Nguyên
Đôi bờ cây độc mọc liền
Lá rơi thúi nước đen tuyền mực pha
Vâ tâm để thấm vào da
Tổn thương tạng phủ, hàn tà nhập vô
Ba ngày mắc chứng thũng phù
Xanh xao huỳnh đản, mắt mù tay run
Qua bờ gặp mạch giếng phun
Rịn từ khe đá vô cùng mát trong
Trong binh tật ách phải phòng
Gội đầu tắm giặt cho lòng được yên
Người gọi suối Giác Duyên
Giải trừ oan trái ưu phiền nhơn gian
Ngày thường lòng lạch khô khan
Trăng tròn nước dẫy chảy tràn minh mông
Thượng nguồn có cánh rừng tòng
Đường đi tắt nối lòng vòng ngách truông
Mạng giao rắn rít chim muông
Đu dây chuyền ngọn leo luồn vượt qua
Kỳ binh phục sẳn ngoài xa
Dao con giắt bụng, cung ngà cầm tay
Đừng gây tiếng động mới hay
Hạ cây hàn suối đêm ngày cho xong”.
Châu rằng: “Đa tạ tình nồng
Nắng lâu nay được ngày ròng rã mưa”.
Thương người gió bụi sớm trưa,
Gót nương gậy trúc, bước lừa đá cây
Châu Thông muốn giúp, ép nài
Vu Đồng giữ mực một hai chối từ.
6E- VƯỢT HẮC TUYỀN –
DÙNG BÁT TRẬN ĐỒ BẮT SỬ TRIỀU NGHĨA
Tên đồng xé gió truyền thơ
Định nơi đuổi giặc, hẹn giờ chuyển quân
Giông đưa, bão nổi, mây vần
Chẹn non Thương Đãng, phục chân Hình Đài
Châu rằng: “Sử đã chạy dài
Đất cùng cố thủ chờ ngày tiêu vong
Còn đây lũy sắt tường đồng
Ra oai chẳng lợi, tấn công chẳng thành
Dịu mềm, khoan nhặt điều binh
Khi lôi thôi tới, lúc trùng trình lui.
Vải cơm, giăng bẫy đập ruồi
Bắt hùm – đã nắm chặt đuôi - khó gì
Lịnh ra, phải cất mình đi,
Đúng thời xung trận, kịp khi đánh thành”.
Tơ căng, càng lúc càng mành
Vỗ tay sấm động tan tành Ngư Dương
Vồ mồi, sè cánh đại bàng
Cờ bay gió lộng, liên hoàn đưa quân
Yên binh yếu kém mười phần,
Phơi kì đìa rọt, tinh thần rã tan
Hạ gươm xếp giáp đầu hàng,
Mộng Nam Kha, giấc kê vàng còn đâu.
Chần chờ, ắt rụng mất đầu,
Sử càn bão lửa bôn đào cửa Tây.
Lờ mờ ẩn hiện rừng cây,
Lô nhô lính tráng phục ngoài Thương San
Hận cừu gặp gỡ giữa đàn
Vân Anh chỉ kiếm hiên ngang trận tiền
- “Bàn cờ thế, chiếm nước tiên
Thủ, công quá dở mất liền ngựa xe.
Khuyết luôn tượng đỡ sĩ che
Về cung ông tướng rụt rè một thân
Xưa kia, ỷ thế cậy thần
Bẻ sừng tê giác, rút gân thuồng luồng.
Giờ đây, ngựa giẫm bóng suông
Mưa đi mờ mắt giọt buồn cô đơn
Tránh sao được lẽ tuần hườn
Hung tàn đổi nghĩa thay nhơn đặng nào
Luật trời quả rất nhiệm mầu,
Lừa thầy phản bạn cất đầu chẳng lên.
Mấy đời bá đạo vững bền,
Ai cho lang sói nằm trên chiếu ngà ?”.
Châu Thông giong ngựa băng ra,
Âm dương hai kiếm lượn qua một vòng,
Cứng mềm lui tới thủ công
Hoa bay ửng sắc cầu vòng tỏa lan.
Êm êm suối hát thong đàn
Ghê tai, rít gió reo ngàn tên buông
Dàn giăng bão giựt mưa tuôn,
Bao tròn khép kín, trốt luồn hang mây.
Sọ đầu bêu ở nơi nầy
Chỗ kia, xác đãi chim bầy rỉa xương
Quay ngang, Sử vội cướp đường
Băng càn nước rút, bụi hường mù bay
Bóng in bờ cát trải dài,
Thoắt còn chấm nhỏ ven mây ráng tà
Chau mày, nàng vội hỏi qua:
- “Sao không trống giục quân nà rượt theo ?”.
Châu rằng: “Mạng sợi tóc treo,
Gươm vàng giết chuột, hiểm nghèo có khi
Kiến bò miệng tộ lo gì
Phục binh tóm giải đơn trì nay mai
Ngọa Long bát trận đã bày
Bấm tay cửa tử chánh đoài Thương San
Rừng tòng độc đạo xuyên ngang
Không qua lối đó lên ngàn được đâu.
Móc mồi, thả lưới giăng câu
Vuốt râu chờ cọp, hờm lao đâm hùm”.
Xuống yên Sử lách chen lùm
Gai đâm xễ gót, lưng khum vạch đường.
Chạnh lòng bi thảm cảm thương,
Đất chìm biển nổị gẫm dường chiêm bao
Thình lình, lũng thấp đồi cao
Ầm ầm đá chuyển, ào ào cây rung
Dấn thân đất hiểm đường cùng,
Xông pha gắng gượng, vẫy vùng rủi may
Khắp nơi, binh bố trận bày
Nẻo đi phút bỗng đổi thay khó lường.
Phong vân xà điểu bốn phương
Biến hình đổi thế, cản đường, đuổi, vây
Búa vung mỏi rụng cánh tay,
Tư bề rạng sắc cờ bay người tràn.
Liều mình phóng ngựa hướng Càn,
Dưới cờ Huyền Võ pháo ran tên vèo
Biết lâm tình ngặt cảnh nghèo,
Giục bon hướng Chấn, băng đèo đào sanh.
Rừng xanh rơi cội rụng canh,
Ngọn Thanh Lonh hiện, Ngươn Hanh đứng chờ
Sử dường nửa tỉnh nửa mơ,
Đường mê vía lạc, sững sờ khách say.
Ngước lên tốc thẳng non Đoài,
Đại kỳ Bạch Hổ, gió Tây thổi lồng
Đoàn quân giáp trắng trùng trùng,
Khí xô nghiêng núi, búa đồng nặng tay
Lao dài phóng tới như bay,
Gươm lia mất mật, kích quay lạnh hồn.
Vó câu Triều Nghĩa dập dồn,
Chạy về Nam nhạc bảo tồn mạng căn.
Rầm rầm đá đổ cây lăn,
Đồi cao hóa vực, đất bằng sóng xô.
Cờ Châu tước cắm giữa gò,
Giáp hồng triền núi khó dò nẻo thong
Quẩn quanh quanh quẩn lòng vòng,
Đánh liều vô giữa - đục trong chẳng màng.
Đoàn quân rặc chiến bào vàng
Đức Tâm xuống lịnh hàng ngang đối đầu
Bốn phương gai rắp đường rào
Sục sôi nước lửa thét gào bão giông.
Sấu kình ngòi lạch cạn dòng,
Dễ gì luồn lách thoát vòng kiếm đao.