Tác giả: Bùi Nguyên Phong
HÀNH THÁNG TƯ
T 54 cao đầu lừng lững.
Pháo vươn nòng đâm toạc trời xanh.
Tháng Tư oằn dưới vòng bánh xích.
Lửa ngục tù thay lửa chiến tranh.
Tháng Tư gào thét bằng giọng Bắc.
“Ta đánh cho Mỹ cút, Ngụy nhào.”
Từng hàng, từng đoàn xe ngạo nghễ.
“Bão Nổi Lên Rồi” há chiêm bao.
Tháng Tư hầm hập lò bát quái.
Cái nóng nung người rát thịt da.
Lang thang những linh hồn lở lói.
Cúi mặt về nơi khói bụi mờ..
Tháng Tư dép râu và mũ cối.
Bao nhiêu năm ? Ta lại đổi đời.
Ta cười… Bạn nghẹn ngào, tức tưởi.
Triệu người buồn cho triệu người vui.
Tháng Tư hết rồi Đam, 67.
Đổi chủ giang san… Đổi chủ xe.
Tai bèo ngổ ngáo từng góc phố.
Nón sắt chỏng chơ vứt sau hè.
Tháng Tư háo hức năm 18.
Đồi núi giang tay đón ta về.
Tuổi thanh xuân đèn trăng, quạt gió.
Lửa rừng thiêng thiêu cháy đam mê.
Tháng Tư tàu đi trong sương sớm
Đất Bắc buồn tâm kiếp lưu đày.
Quê hương biền biệt… Vợ con khóc.
Lắt lay số phận ngọn cỏ may.
Tháng Tư thuyền chìm sâu nước lạnh.
Hồn bay ngơ ngác biết đâu nhà.
Thân xác nổi trôi đầu ngọn sóng.
Tay giựt dành hai chữ tự do.
Súng đạn vô tình người độ lượng.
Hận thù khép lại cố mà quên.
Nam, Bắc một nhà ai hãy nhớ.
Những con đường nay đặt lại tên.
Ve kêu ra rả sân trường vắng.
Lửa Phượng thay vào lửa chiến tranh.
Ta bước ngẩn ngơ thăm trường cũ.
Viết vội bài thơ “Tháng Tư hành”.
Bùi Nguyên Phong
T 54 cao đầu lừng lững.
Pháo vươn nòng đâm toạc trời xanh.
Tháng Tư oằn dưới vòng bánh xích.
Lửa ngục tù thay lửa chiến tranh.
Tháng Tư gào thét bằng giọng Bắc.
“Ta đánh cho Mỹ cút, Ngụy nhào.”
Từng hàng, từng đoàn xe ngạo nghễ.
“Bão Nổi Lên Rồi” há chiêm bao.
Tháng Tư hầm hập lò bát quái.
Cái nóng nung người rát thịt da.
Lang thang những linh hồn lở lói.
Cúi mặt về nơi khói bụi mờ..
Tháng Tư dép râu và mũ cối.
Bao nhiêu năm ? Ta lại đổi đời.
Ta cười… Bạn nghẹn ngào, tức tưởi.
Triệu người buồn cho triệu người vui.
Tháng Tư hết rồi Đam, 67.
Đổi chủ giang san… Đổi chủ xe.
Tai bèo ngổ ngáo từng góc phố.
Nón sắt chỏng chơ vứt sau hè.
Tháng Tư háo hức năm 18.
Đồi núi giang tay đón ta về.
Tuổi thanh xuân đèn trăng, quạt gió.
Lửa rừng thiêng thiêu cháy đam mê.
Tháng Tư tàu đi trong sương sớm
Đất Bắc buồn tâm kiếp lưu đày.
Quê hương biền biệt… Vợ con khóc.
Lắt lay số phận ngọn cỏ may.
Tháng Tư thuyền chìm sâu nước lạnh.
Hồn bay ngơ ngác biết đâu nhà.
Thân xác nổi trôi đầu ngọn sóng.
Tay giựt dành hai chữ tự do.
Súng đạn vô tình người độ lượng.
Hận thù khép lại cố mà quên.
Nam, Bắc một nhà ai hãy nhớ.
Những con đường nay đặt lại tên.
Ve kêu ra rả sân trường vắng.
Lửa Phượng thay vào lửa chiến tranh.
Ta bước ngẩn ngơ thăm trường cũ.
Viết vội bài thơ “Tháng Tư hành”.
Bùi Nguyên Phong