Tác giả: Bàng Bá Lân
Năm Ất Dậu, tháng ba, còn nhớ mãi
Giống Lạc Hồng cực trải lắm đau thương!
Những thây ma thất thểu đầy đường,
Rồi ngã gục không đứng lên vì... đói!
Đói từ Bắc Giang đói về Hà Nội,
Đói ở Thái Bình đói tới Gia Lâm.
Khắp đường xa những xác đói rên nằm
Trong nắng lửa, trong bụi lầm co quắp.
Giữa đống giẻ chỉ còn đôi hố mắt
Đọng chút hồn sắp tắt của thây ma;
Những cánh tay gầy quờ quạng khua khoa
Như muốn bắt những gì vô ảnh,
Dưới mớ tóc rối bù và kết bánh,
Một làn da đen xạm bọc xương đầu.
Răng nhe ra như những chiếc đầu lâu,
Má hóp lại, răng hằn sâu gớm ghiếc.
Già trẻ gái trai không còn phân biệt,
Họ giống nhau như là những thây ma,
Như những bộ xương còn dính chút da
Chưa chết đã bốc xa mùi tử khí!
Mùi nhạt nhẽo nặng nề kỳ dị,
Một mùi tanh lộn mửa thoảng mà kinh.
(Mùi tanh hôi ám ảnh mãi bên mình
Khiến cả tháng ăn không còn ngon bữa).
Những thây đó cứ xỉu dần tắt thở,
Nằm cong queo mắt vẫn mở trừng trừng.
Trông con ngươi còn đọng lệ rưng rưng,
Miệng méo xệch như khóc còn dang dở.
Có thây chết ba hôm còn nằm đó,
Ruồi tám phương bâu lại khóc vo vo...
Rồi ven đường đôi nhát cuốc hững hờ
Đắp điếm vội những nấm mồ nông dối!
Đói từ Bắc Giang đói về Hà Nội,
Đói ở Thái Bình đói tới Gia Lâm.
Rải ven đường những nấm mộ âm thầm
Được đánh dấu bằng ruồi xanh cỏ tốt.
Có nấm mộ quá nông trơ hài cốt,
Mùi hôi tanh nồng nặc khắp không gian.
Sau vài trận mưa, nước xối chan chan,
Ôi, thịt rữa xương tàn phơi rải rác!
Tại Hà Nội cũng như bao tỉnh khác,
Những thây ma ngày lết đến càng đông;
Đem ruồi theo cùng hơi hớm tanh nồng,
Rồi ngã gục khắp đầu đường cuối ngõ.
Thường sớm sớm cửa mỗi nhà hé ngỏ,
Rụt rè xem có xác chết nào chăng!
Từng chiếc xe bò bánh rít khô khan
Mỗi sáng dạo khắp nẻo đường nhặt xác.
Xác chồng chất lù lù như đống rác,
Đó đây thò khô đét một bàn chân
Hay cánh tay gầy khô đét teo răn
Giơ chới với như níu làn không khí,
Như cầu cứu, như vẫy người chú ý...
Có hơi thở tàn thoi thóp chưa thôi,
Có tiếng cụa mình, tiếng nấc... Những tròng ngươi
Nhìn đẫm lệ người chôn người chửa chết!
Bốn ngoại ô mở ra từng dẫy huyệt
Được lắp đầy bằng xác chết... thường xuyên.
Ruồi như mây bay rợp cả một miền...
Chết! Chết! Chết! Hai triệu người đã chết!
Họ là những người quê non nước Việt,
Sống cần lao bên ruộng lúc đồng khoai.
Lúa xanh rờn nhờ họ đổ mồ hôi,
Nước Việt sống nhờ mồ hôi họ đổ.
Năm ấy, thuở Nhật, Tây cùng đô hộ,
Chúng thi nhau cướp lúa của dân ta.
Hết lúa rồi, hết sạch cả khoai ngô;
Hết củ chuối, hết nhẵ khô cả sắn!
Ngày giáp hạt không còn chi để nhấm,
Đói cháy lòng, đành nhá cả mo cau;
Nhá cả bèo và nuốt cả khô dầu!
Đói! đói! đói! Người nhao lên vì đói!
Đói từ Bắc Giang đói về Hà Nội,
Đói ở Thái Bình đói tới Gia Lâm.
Tạm biệt quê hương, lê gót âm thầm
Trên rải rác mọi nẻo đường đất nước.
Từng gia đình dắt díu nhau lê bước
Đi lang thang mong sống tạm qua ngày.
Đợi lúa lên hương, bông trĩu đầu cây.
Hơn tháng nữa sẽ hồi cư sẽ sống!
Nhưng đau đớn hỡi ơi là ảo mộng!
Họ ra đi hy vọng có ngày về!
Nhưng chẳng bao giờ về nữa, hỡi người quê.
Dần lả gục khắp đầu đường xó chợ!
Cùng lúc ấy cũng trên đường rộn rã,
Từng đoàn xe chuyên chở thóc vàng tươi.
Thóc của dân đen, thóc của những người
Đang chết đói vì thực dân cướp thóc.
Thóc chúng cướp phần vung xài huy hoắc,
Phần chúng đem để mục nát trong kho!
Ôi, đau thương, chưa từng thấy bao giờ...
Trong lịch sử chưa bao giờ từng có!
Hai triệu người, vì thực dân, lìa bỏ
Nước thân yêu, oan uổng chết đau thương,
Trong lúc đầy đồng bát ngát, ở quê hương,
Lúa mơn mởn đang ra đòng trổ trái,
Lúa trĩu hạt vàng tươi sai gấp bội,
Ngạt ngào thơm báo hiệu ấm no vui.
Nhưng người đi không về nữa, than ôi!
Lúa chín gục, chẳng còn ai gặt hái!...
Ta nhớ mãi cái thời kỳ đen tối!
Quên làm sao tội lỗi kẻ xâm lăng!
Quên làm sao mối thù hận khôn cùng!
Quên sao được hai triệu người chết đói!
Năm Ất Dậu tháng ba, còn nhớ mãi,
Giống Lạc Hồng cực trải lắm đau thương!
Những thây ma thất thểu đầy đường.
Rồi ngã gục không đứng lên vì... đói!
Đói từ Bắc Giang đói về Hà Nội,
Đói ở Thái Bình đói tới Gia Lâm!...
(Tháng Năm 1957)
Giống Lạc Hồng cực trải lắm đau thương!
Những thây ma thất thểu đầy đường,
Rồi ngã gục không đứng lên vì... đói!
Đói từ Bắc Giang đói về Hà Nội,
Đói ở Thái Bình đói tới Gia Lâm.
Khắp đường xa những xác đói rên nằm
Trong nắng lửa, trong bụi lầm co quắp.
Giữa đống giẻ chỉ còn đôi hố mắt
Đọng chút hồn sắp tắt của thây ma;
Những cánh tay gầy quờ quạng khua khoa
Như muốn bắt những gì vô ảnh,
Dưới mớ tóc rối bù và kết bánh,
Một làn da đen xạm bọc xương đầu.
Răng nhe ra như những chiếc đầu lâu,
Má hóp lại, răng hằn sâu gớm ghiếc.
Già trẻ gái trai không còn phân biệt,
Họ giống nhau như là những thây ma,
Như những bộ xương còn dính chút da
Chưa chết đã bốc xa mùi tử khí!
Mùi nhạt nhẽo nặng nề kỳ dị,
Một mùi tanh lộn mửa thoảng mà kinh.
(Mùi tanh hôi ám ảnh mãi bên mình
Khiến cả tháng ăn không còn ngon bữa).
Những thây đó cứ xỉu dần tắt thở,
Nằm cong queo mắt vẫn mở trừng trừng.
Trông con ngươi còn đọng lệ rưng rưng,
Miệng méo xệch như khóc còn dang dở.
Có thây chết ba hôm còn nằm đó,
Ruồi tám phương bâu lại khóc vo vo...
Rồi ven đường đôi nhát cuốc hững hờ
Đắp điếm vội những nấm mồ nông dối!
Đói từ Bắc Giang đói về Hà Nội,
Đói ở Thái Bình đói tới Gia Lâm.
Rải ven đường những nấm mộ âm thầm
Được đánh dấu bằng ruồi xanh cỏ tốt.
Có nấm mộ quá nông trơ hài cốt,
Mùi hôi tanh nồng nặc khắp không gian.
Sau vài trận mưa, nước xối chan chan,
Ôi, thịt rữa xương tàn phơi rải rác!
Tại Hà Nội cũng như bao tỉnh khác,
Những thây ma ngày lết đến càng đông;
Đem ruồi theo cùng hơi hớm tanh nồng,
Rồi ngã gục khắp đầu đường cuối ngõ.
Thường sớm sớm cửa mỗi nhà hé ngỏ,
Rụt rè xem có xác chết nào chăng!
Từng chiếc xe bò bánh rít khô khan
Mỗi sáng dạo khắp nẻo đường nhặt xác.
Xác chồng chất lù lù như đống rác,
Đó đây thò khô đét một bàn chân
Hay cánh tay gầy khô đét teo răn
Giơ chới với như níu làn không khí,
Như cầu cứu, như vẫy người chú ý...
Có hơi thở tàn thoi thóp chưa thôi,
Có tiếng cụa mình, tiếng nấc... Những tròng ngươi
Nhìn đẫm lệ người chôn người chửa chết!
Bốn ngoại ô mở ra từng dẫy huyệt
Được lắp đầy bằng xác chết... thường xuyên.
Ruồi như mây bay rợp cả một miền...
Chết! Chết! Chết! Hai triệu người đã chết!
Họ là những người quê non nước Việt,
Sống cần lao bên ruộng lúc đồng khoai.
Lúa xanh rờn nhờ họ đổ mồ hôi,
Nước Việt sống nhờ mồ hôi họ đổ.
Năm ấy, thuở Nhật, Tây cùng đô hộ,
Chúng thi nhau cướp lúa của dân ta.
Hết lúa rồi, hết sạch cả khoai ngô;
Hết củ chuối, hết nhẵ khô cả sắn!
Ngày giáp hạt không còn chi để nhấm,
Đói cháy lòng, đành nhá cả mo cau;
Nhá cả bèo và nuốt cả khô dầu!
Đói! đói! đói! Người nhao lên vì đói!
Đói từ Bắc Giang đói về Hà Nội,
Đói ở Thái Bình đói tới Gia Lâm.
Tạm biệt quê hương, lê gót âm thầm
Trên rải rác mọi nẻo đường đất nước.
Từng gia đình dắt díu nhau lê bước
Đi lang thang mong sống tạm qua ngày.
Đợi lúa lên hương, bông trĩu đầu cây.
Hơn tháng nữa sẽ hồi cư sẽ sống!
Nhưng đau đớn hỡi ơi là ảo mộng!
Họ ra đi hy vọng có ngày về!
Nhưng chẳng bao giờ về nữa, hỡi người quê.
Dần lả gục khắp đầu đường xó chợ!
Cùng lúc ấy cũng trên đường rộn rã,
Từng đoàn xe chuyên chở thóc vàng tươi.
Thóc của dân đen, thóc của những người
Đang chết đói vì thực dân cướp thóc.
Thóc chúng cướp phần vung xài huy hoắc,
Phần chúng đem để mục nát trong kho!
Ôi, đau thương, chưa từng thấy bao giờ...
Trong lịch sử chưa bao giờ từng có!
Hai triệu người, vì thực dân, lìa bỏ
Nước thân yêu, oan uổng chết đau thương,
Trong lúc đầy đồng bát ngát, ở quê hương,
Lúa mơn mởn đang ra đòng trổ trái,
Lúa trĩu hạt vàng tươi sai gấp bội,
Ngạt ngào thơm báo hiệu ấm no vui.
Nhưng người đi không về nữa, than ôi!
Lúa chín gục, chẳng còn ai gặt hái!...
Ta nhớ mãi cái thời kỳ đen tối!
Quên làm sao tội lỗi kẻ xâm lăng!
Quên làm sao mối thù hận khôn cùng!
Quên sao được hai triệu người chết đói!
Năm Ất Dậu tháng ba, còn nhớ mãi,
Giống Lạc Hồng cực trải lắm đau thương!
Những thây ma thất thểu đầy đường.
Rồi ngã gục không đứng lên vì... đói!
Đói từ Bắc Giang đói về Hà Nội,
Đói ở Thái Bình đói tới Gia Lâm!...
(Tháng Năm 1957)