Tác giả: Ca Dao Việt Nam
(do Ông Bùi văn Hứa, ông Trần văn Sửu, ông Trần văn Kén kể) Hai bên cô bác, Lẳng lặng mà nghe. Nghe tôi kể cái vè Ngư lương, tử hổ Lý sâm, lý chuối, Dưới rạch, dưới ngòi Cá nục, cá úc, cá thơm, cá thác Hơi nào mà kể hết cá nơi làng này Thần linh chiêm bái Vậy mới cất chùa chiền Mới đúc Phật, đúc chuông Cô bác xóm giềng Lẳng lặng mà nghe Cá nuôi thiên hạ là con cá cơm, Không ăn bằng mồm là con cá ngác. Không ăn mà ú là con cá voi, Hai mắt thòi lòi là cá trao tráo. Không may quần áo là con cá chim, May áo không kim là con duối dẻ. Sống lâu mạnh khoẻ là cá trường sanh. Ờ ngoài đầu gành là cá bống cát, Đi thời xách mác là con cá đao, Đốn cây mà rào là con cá chép. Nó kêu óp ép là con cá heo, Buộc mà treo là cá cờ phướng Để lên mà nướng là cá nóc vàng Để được hai thoàn (*) là cá nhám nghệ. Đi thời chậm trễ là cá lù đù, Đầu óc chù vù là con cá úc. Bắt lên chặt khúc là con cá sòng, Vợ đánh với chồng là con cá sào. Mình cũng như dao là cá lưỡi trâu, Eo đầu ngắn cổ là con cá ét. Miệng mồm lép xẹp là con cá móm, Chơi trăng cả hám là con cá thu. Vừa sủa vừa tru là cá hàm chó, May ngồi xỏ rỏ là cá hàm be. Lắng tai mà nghe là con cá mỏng, Việc làm cho chóng là con cá mau. Lãi đãi theo sau là con cá nóc, Chân đi lốc thốc là con cá bò. Ăn chẳng hay no là con cá liệc, Gái tham huê nguyệt là con cá dâm. Lấy cây mà đâm là cá nhám nhọn, Nước da lạm xạm là cá nhám trâu. Mặt trắng làu làu là cá bạc má, Hình đen như quạ là cá ô mun. Đặt giữa đình trung là cá ông sáp, Vừa đi vừa táp là cá dọ đàng. Kiều (*2) lạc khua vang là con cá ngựa, Rước thấy về chữa là cá tà ma. Đi xét từ nhà là con cá sát, Đắp bờ mà tát là cá ở mương. Giống không biết đường là con cá lạt (*3)... Kể cho cô bác nghe lấy mà chơi. Kể đã hết hơi xin cho tôi nghỉ. _______________________ (*) thoàn = thuyền (*2) kiều = yên ngựa (*3) lạt = lạc (vì phát âm tiếng Nam)