Tam Biệt

Tác giả: Đỗ Phủ

Thùy lão biệt

Tứ giao vị ninh tĩnh
Thùy lão bất đắc an
Tử tôn trận vong tận
Yên dụng thân độc hoàn ?
Đầu trượng xuất môn khứ ?
Đồng hành vị tân toan
Hạnh hữu nha xỉ tồn
Sở bi cốt tủy can
Nam nhi ký giới trụ
Trường ấp biệt thượng quan
Lão thê ngọa lộ đề
Tuế mộ y thường đan
Thục tri thị tử biệt ?
Thả phục thương kỳ hàn
Thử khứ bất tất quy
Hoàn văn khuyến gia xan
Thổ môn bích thậm kiên
Hạnh viên độ diệc nan
Thế dị Nghiệp thành hạ
Tùng tử thời do khoan
Nhân sinh hữu ly hợp
Khởi trạch suy thịnh đoan ?
Ức tích thiếu tráng nhật
Trì hồi cánh trường than
Vạn quốc tận chinh thú
Phong hoả bị cương loan
Tích thi thảo mộc tinh
Lưu huyết xuyên nguyên đan
Hà hương vi lạc thổ
An cảm thượng bàn hoàn
Khí tuyệt bồng thất cư
Tháp nhiên tồi phế can

Tân hôn biệt

Thỏ ty phụ bồng ma
Dẫn man cố bất trường
Giá nữ dữ chinh phu
Bất như khí lộ bàng !
Kết phát vi quân thê
Tịch bất noãn quân sàng
Mộ hôn thần cáo biệt
Vô nãi thái thông mang !
Quân hành tuy bất viễn
Thú biên phó Hà Dương
Thiếp thân vị phân minh
Hà dĩ bái cô chương ?
Phụ mẫu dưỡng ngã thì
Nhật dạ linh ngã tàng
Sinh nữ hữu sở quy
Kê cẩu diệc đắc tương
Quân kim vãng tử địa
Trầm thống bách trung trường
Thệ dục tùy quân khứ
Hình thế phản thương hoàng
Vật vị tân hôn niệm
Nỗ lực sự nhung hàng
Phụ nhân tại nhân trung
Binh khí khủng bất dương
Tự ta bần gia nữ
Cửu trí la nhu thường
La nhu bất phục thi
Đối quân tẩy hồng trang
Ngưỡng thị bách điểu phi
Đại tiểu tất song tường
Nhân sự đa thác ngỗ
Dữ quân vĩnh tương vương

Vô gia biệt

Tịch mịch Thiên Bảo hậu
Viên lư đãn cao lê
Ngã lý bách dư gia
Thế loạn các đông tê
Tồn giả vô tiêu tức
Tử giả vị trần nê !
Tiện tử nhân trận bại
Quy lai tầm cựu khê
Cửu hành kiến không hạng
Nhật sấu khí thảm thê !
Đãn đối hồ dữ ly
Thụ mao nộ ngã đề
Tứ lân hà sở hữu ?
Nhất nhị lão quả thê
Túc điểu luyến bản chi
An từ thả cùng thê
Phương xuân độc hà xừ
Nhật mộ hoàn quán khuê
Huyện lại tri ngã chí
Triệu linh tập cổ bề
Tuy tòng bản châu dịch
Nội cố vô sở huề
Cận hành chỉ nhất thân
Viễn khứ chung chuyển mê
Gia hương ký đãng tận
Viễn cận lý diệc tề
Vĩnh thống trường bệnh mẫu
Ngũ niên uỷ câu khê !
Sinh ngã bất đắc lực
Chung thân lưỡng toan tê !
Nhân sinh vô gia biệt
Hà dĩ vi chửng lê ?



Dịch Nghĩa
Cuộc chia ly lúc về già

Bốn phương chưa ổn định
Thân về già cũng chẳng được yên
Con cháu chết trận hết
Một mình sống để làm gì ?
Quẳng gậy ra cửa đi
Bạn đồng hành cũng lấy làm chua xót
May hàm răng vẫn còn
Thương nỗi tủy xương đã khô kiệt !
Thân trai đã mặc đồ giáp trụ
Vái dài từ biệt quan trên
Vợ già lăn ra đường gào
Hết năm rồi quần áo mỏng manh
Ai ngờ đến lúc tử biệt
Mà còn thương nhau rét !
Lần này đi chắc chắn không trở về
Vẫn còn nghe khuyên nhau cố ăn thêm
Nơi Thổ Môn thành lũy rất vững
Thành Hạnh Viên cũng khó vượt qua
Hình thế không giống như ở dưới thành Nghiệp
Dù có chết cũng còn lâu
Đời người có tan có hợp
Kể gì tuổi trẻ hay già ?
Nhớ lại đương thì trai tráng
Băn khoăn rồi lại thở dài
Muôn nước đều có chiến tranh đồn thú
Lửa báo động bốc khắp núi gò
Thây chất làm tanh hôi cây cỏ
Máu chảy nhuộm đỏ sông ngòi đồng ruộng
Còn quê hương nào là đất yên vui
Mà còn dám chần chừ nữa ?
Dứt bỏ nơi ở tranh pheo này
Rời rã như nát cả gan phổi ! Cuộc chia ly của cặp vợ chồng mới cưới

Dây tơ hồng bám vào cây bòng bong , cây gai
Dù ngọn dây có lan ra cũng không thể được dài
Có con gái gã cho người đi lính
Chẳng thà vất bỏ bên đường
Vấn tóc (1) về làm vợ anh
Giường của anh , em nằm chưa ấm chiếu
Chập tối đưa dâu , sớm mai từ biệt
Há chẳng là quá đỗi vội vàng !
Anh đi tuy không xa
Đến Hà Dương để đóng giữ biên giới
Nhưng thân phận em chưa được phân minh (2)
Biết lạy chào cha mẹ chồng thế nào cho phải ?
Nhớ khi ở với cha mẹ
Ngày đêm nuôi nấng giữ gìn trong nhà
Sinh con gái thì phải gả chồng
Con gà con chó cũng được mang theo (3)
Nay anh đến nơi vào sinh ra tử
Nỗi đau ngầm nung nấu trong lòng em
Đã toan thề quyết đi theo anh
Song tình thế lại biến chuyển khó khăn
Anh chớ nên vì vợ mới mà bịn rịn
Hãy gắng sức gánh vác việc quân
Nếu có đàn bà trong quân đội
E tinh thần binh sĩ khó lên cao
Em chỉ than thân là con gái nhà nghèo
Bộ áo xiêm lụa may mãi mới xong
Áo xiêm ấy nay không mặc nữa
Trước mặt anh rửa hết phấn son
Ngước nhìn trăm giống chim bay trên trời
Mặc dù lớn nhỏ cũng đều có đôi
Sao đời người lại lắm điều lận đận
Em cùng anh trông ngónh nhau hoài

Cuộc chia ly của kẻ vô gia cư

Cảnh tiêu điều sau năm Thiên Bảo
Nhà vườn toàn là cỏ dại
Xóm mình có hơn trăm nhà
Gặp đời loạn , mỗi người đi một phương
Người còn không tin tức gì
Người chết biến thành bụi đất
Thân hèn vì thua trận
Tìm lối cũ quay về
Đi mãi chỉ thấy ngõ vắng
Ánh nắng thoi thóp , cảnh tượng thê lương !
Trước mắt chỉ thấy cáo cùng cầy
Xù lông nhìn ta gầm gừ , giận dữ
Bốn bề hàng xóm còn gì đâu ?
Một vài bà già góa bụa
Chim ngủ mến cành quen
Đâu dám ngại , đành nương náu với nghèo khổ !
Giữa mùa xuân thui thủi vác cuốc
Chiều tối vẫn tát nước ngoài đồng
Bọn nha lại trên huyện biết mình về
Gọi gắt đi tập trống trận
Tuy chỉ phục dịch trong châu nhà
Nhìn lại chẳng có người nào
Đi gần chỉ có một thân
Đi xa cuối cùng lạc lối !
Quân nhà đã sạch sành sanh
Dù xa hay gần thì cũng thế
Xót thương vô cùng , mẹ già ốm lâu năm
Chết đã năm năm rồi vẫn vùi bên khe lạch
Sinh ra mình mà chẳng được nhờ
Suốt đời mẹ con đều chua xót !
Đời người đến nỗi không có nhà mà từ biệt
Thực làm kẻ dân đen cũng không đáng




Dịch Thơ
Cuộc từ biệt lúc về già

Nước loạn lạc ,thân già lận đận
Con cháu đều chết trận hết rồi
Một mình sống ở với ai ?
Ném phăng chiếc gậy , cửa ngoài ra đi !
Răng may chặt , xương thì đã lỏng
Người cùng đi ai cũng xót thương
Tài trai mũ đội , giáp mang
Vái dài , phải dám khinh thường quan trên !
Vợ già khóc lăn trên đường cái
Quần áo đơn dầu dãi chiều đông
Còn thương nhau nỗi lạnh lùng
Nào hay sống chết , thôi hòng gặp nhau
Đi thì được , về đâu được nữa
Còn khuyên nhau cơm bữa gượng xơi !
Ải bền , trấn vững bao nơi
Chẳng như thành Nghiệp : chết thời còn lâu !
Đời tan hợp cứ đâu già cũ
Tiếc trẻ trung trót đã lữa lần
Muôn phương chật ních những quân
Núi rừng lửa hiệu xa gần cháy vung
Thây chất lại thối xông cây cỏ
Máu chảy ra nhuộm đỏ sông đồng
Đâu yên vui nữa mà mong
Lều tranh bỏ dứt đau lòng tím gan

Nhượng Tống dịch

Cuộc ly biệt của đôi vợ chồng mới cưới

Tơ hồng leo phải cây đay
Quanh co quấn quít cho dây khó dài
Gả con cho mấy cậu cai
Chẳng thà bỏ quách ở nơi vệ đường
Rẽ ngôi , em bén duyên chàng
Chiếu em chưa ấm cái giường nhà trai
Cưới chiều hôm , vắng sớm mai
Duyên đâu lật đật cho ngươi xót xa !
Chàng đi dù chẳng bao xa
Hà Dương đất ấy cũng là đáng lo
Thân em mới mẻ thẹn thò
Chào cha , gửi mẹ sao cho nên điều ?
Ngày xưa cha , mẹ nuông chiều
Ngày đêm những bắt nâng niu giữ giàng
Đến khi về tới nhà chàng
Con gà , con chó cũng mang theo cùng
Chàng nay tới chốn hãi hùng
Nghĩ thôi em đã quặn lòng đau thương
Cũng toan quyết chí theo chàng
Chút e tình thế vội vàng chưa yên
Thôi chàng gác mối tình duyên
Việc binh đã gánh thì nên chuyên cần
Đàn bà ở đám ba quân
Sợ rằng gươm giáo kém phần xông pha
Xót em thanh bạch con nhà
Có may được tấm quần là từ lâu
Quần là còn mặc đi đâu ?
Đối chành , xin rửa hết màu phấn son
Ngửa trong chim chóc bao con
Con to , con nhỏ cũng còn bay đôi
Dở dang ngắm cái kiếp người
Cùng chàng , thôi sẽ suốt đời nhớ mong !

Ngô Tất Tố dịch

Cuộc ly biệt của kẻ không nhà

Quạnh quẽ sau Thiên Bảo
Vườn lều chỉ cỏ gai !
Làng tôi dư trăm nhà
Thời loạn tản đông tây
Người còn không tin tức
Người chết lấp bùn lầy
Thằng tôi nhân thua trận
Tìm lối cũ về đây
Đi hoài thấy ngõ trống
Buồn tênh bóng nắng gầy !
Chỉ gặp chồn với cáo
Xù lông khịt dọa tôi
Quanh làng gì đâu có ?
Bà góa một đôi người
Chim còn mến cành cũ
Đậu khổ vẫn không rời
Mùa xuân , riêng vác cuốc
Tối , còn tưới nương soi
Viên huyện hay tôi về
Ra lính , đã cho đòi
Tuy làm lính trong hạt
Trong nhà không còn ai
Đi gần riêng lủi thủi
Đi xa biệt mù khơi
Quê nhà đà hết sạch
Xa gần cũng thế thôi !
Xót mẹ nỗi đau ốm
Vùi xác năm năm rồi
Sinh tôi chẳng được gì
Suốt đời hận cả đôi
Người không nhà mà biệt
Sao gọi được là người ?

Khương Hữu Dụng dịch
Chưa phân loại
Uncategorized