Bích Câu Kỳ Ngộ

Tác giả: Khuyết Danh

Mấy trăm năm một chữ tình,
Dưới trời ai kẻ lọt vành hóa nhi.
Cơ duyên ngẫm lại mà suy,
Trời Nam nào có xa gì cõi Tây.
Tương duyên kỳ ngộ xưa nay,
Trước kia Lưu, Nguyễn, sau này Bùi, Trương.
Kìa ai mê giấc Đài Dương,
Mây mưa là chuyện hoang đường biết đâu?

Thành Tây có cảnh Bích Câu,
Cỏ hoa góp lại một bầu xinh sao!
Đua chen Thu Cúc, Xuân Đào,
Lựu phun lửa hạ, Mai chào gió đông.
Xanh xanh dãy Liễu, ngàn Thông,
Cỏ lan lối mục, Rêu phong dấu tiều.
Một vùng non nước quỳnh giao,
Phất phơ gió trúc, dặt dìu mưa hoa.

Triều Lê đương hội thái hòa,
Có Trần công tử tên là Tú Uyên.
Phúc lành nhờ ấm xuân huyên,
Số trong tài mạo kiêm tuyền kém ai.
Thông minh sẵn có tư trời,
Còn khi đồng ấu mãi vui cửa Trình.
Trải xem phong cảnh hữu tình,
Lâm toàn pha lẫn thị thành mà ưa.
Liền khu trùm một lầu thơ,
Lau già chắn vách, trúc thưa giũ rèm.
Thừa hư đàn suối ca chim ,
Nửa song đèn sách, bốn thềm gió trăng.
Của chung huy hoắc đâu bằng,
Chứa kho vàng cúc, chất từng tiền sen .
Khắp so trong cõi ba nghìn ,
Yên hà riêng nửa, lâm tuyền chia đôi.
Thú vui bốn bạn thêm vui
Khắp trong bể thánh, đủ ngoài rừng tao

Thoi đưa ngày tháng sương sao,
Ngô vừa rụng lá lại đào nẩy hoa.
Trời hôm giục bóng dâu tà,
Xuân già e tuyết, huyên già ngại sương .
Não người thay! nỗi tang thương,
Trông vùng mây trắng ngất đường non xanh.
Vai còn đôi gánh thâm tình,
Bầu Nhan đã sạch sành sanh còn gì!
Mấy phen hạ tới thu về,
Lọt mành nắng rõ, quanh hè tuyết xây.
Chiều trời lạnh ngắt hơi may,
Mai tàn trước gió, liễu gầy sau sương!
Lơ thơ nửa mái thảo đường,
Phên thềm lọt gió, vôi tường thấm mưa!
Phong quang lạ khác dấu xưa,
Ao tù sen rũ, rào thưa, cúc cằn.

Sinh từ gặp bước gian truân,
Vinh khô gọi nếm mùi Trần chút chơi.
Cùng thông dù mặc có trời,
Nguôi dần bể khổ, san vơi mạch sầu.
Lôi thôi cơm giỏ nước bầu ,
Những loài yến tước biết đâu chí hồng .
Thề xưa đã nặng với lòng,
Dẫu sau trắng nợ tang bồng mới thôi.
Ao nghiên giá bút thảnh thơi,
Tây hồ tiên tích mấy nơi phẩm bình.
Thi hào dậy tiếng Phượng thành,
Vào phen Lý, Đỗ, nức danh Tô, Tào .
Ngửa nghiêng lưng túi phong tao,
Nước, non, mây, gió, chất vào còn vơi.
Châu ken chữ, gấm thêu lời ,
Vàng gieo tiếng đất, hạc khơi bóng thuyền.
Đã người trong sách là duyên ,
Mấy thu hạt ngọc Lam điền chưa giâm.
Lửng lơ chiếc lá doành nhâm,
Cắm thuyền đợi khách, ôm cầm chờ trăng.

Ngọc Hồ có đám chay tăng ,
Nức nô cảnh Phật, tưng bừng hội Xuân.
Dập dìu tài tử giai nhân ,
Ngổn ngang mã tích xa Trần thiếu ai .
Thưởng Xuân sinh cũng dạo chơi,
Thơ lưng lưng túi, rượu vơi vơi bầu.
Mảng xem cây phạm thú mầu,
Vầng kim ô đã gác đầu non tê .
Tiệc thô ai nấy cùng về,
Gió chiều lay bóng hoa Lê la đà.
Bân cầu đàn lũ năm ba,
Thần tiên trước mắt ai là kẻ hay!
Sinh vừa tựa liễu nương cây,
Lá hồng đâu đã thổi bay lại gần.
Mắt coi mới tỏ dần dần,
Mấy dòng chữ viết ba vần bốn câu .
Trông qua lặng ngắt giờ lâu,
Ấy ai thả lá doành câu ghẹo người .
Vừa toan họa lại mấy lời,
Gió hương đâu đã bay hơi nồng nàn.

Thấy người trước cửa tam quan,
Theo sau ba bảy con hoàn nhởn nhơ.
Lạ lùng con mắt người thơ,
Hoa còn phong nhụy, trăng vừa tròn gương.
Rành rành xuyến ngọc thoa vàng,
Quần Nghê tha thướt, sóng Tương rượm rà .
Mỉa chiều nét ngọc làn hoa,
Cá chìm mặt nước, Nhạn sa lưng trời .
Gần xem vẻ mặt thêm tươi,
Mùi hương thoang thoảng thơm rơi ít nhiều.
Làn thu lóng lánh đưa theo,
Não người nhăn chút lông nheo cũng tình .
Vốn mang cái bệnh Trương sinh,
Gặp người nghiêng nước nghiêng thành biết sao?
Đưa tình một nét sóng đào,
Dẫu lòng sắt đá cũng xiêu, lọ người.
Nhân duyên ví chẳng tự trời,
Từ lang chưa dễ lạc vời non tiên.

Dù mặt lạ đã lòng quen,
Cả liều đến gốc thu thiên ướm nàng:
"Quá vui nên trót sỗ sàng,
"Thử tình cho kẻo bẽ bàng với hoa."
Khách rằng: "Trong hội Vô già,
"Cửa không, ngàn giác đấy là từ bi .
"Gió bay những tiếng thị phi,
"Trót lầm thôi có trách gì đến ai."
Giọng kiều nghe lọt vào tai,
Đã gần bể sắc, khôn vơi sóng tình.
Thưa rằng: "Chút phận thư sinh,
"Đèn từ soi đến tấm thành với nao!
"Chi viên nỡ hẹp hòi sao,
"Mở đường phương tiện chút nào được chăng?"
Rằng: "Đây về đạo kim thằng,
"Trăng hoa sao khéo nói năng những lời.
"Bến từ có hẹp chi ai,
"Dốc đem thuyền giác độ người bến mê.
"Ngán cho bên cõi bồ đề,
"Phải đường ong bướm đi về đấy sao?
"Đoá hoa sẵn nhạc vàng treo,
"Tiếng oanh chỉ để lao xao trên cành."
Lặng nghe lọt đến giọng tình,
Lòng tham quanh cả bên mình mỹ nhân.
Rằng: "Đây lầm xuống mê tân,
"Tiền duyên xin để kim thân tu đền.
"Ba sinh cho vẹn mười nguyền,
"Nhờ tay kim tướng, đưa duyên xích thằng.
"Gậy linh mượn phép cao tăng,
"Phá thành sầu khổ cho bằng mới cam.
"Chày sương đợi khách cầu Lam,
"Phẩm tiên may bén tay phàm biết đâu.
"Nước bèo dù có duyên sau,
"Bên sông thử bắc nhịp cầu từ đây."

Người còn cợt gió, đợi mây,
Gót tiên khách đã trở giầy làm thinh.
Ngóng theo đến Quảng Văn Đình,
Bóng trăng trông đã trên cành lướt qua.
Mượn người thăm hỏi gần xa,
Hồng Lâu Tử Các đâu mà đến đây?
Hay là quán nước, làn mây,
Gió xuân thổi xuống chốn này đấy sao?
Dám xin trỏ lối cho nao,
Tới non Ngọc dễ ai nào về a!
Ơn lòng nhắm liễu thăm hoa,
Biết đâu sắc sắc vẫn là không không
Thoắt thôi lẩn bóng ngàn thông,
Hương trầm còn thoảng cánh hồng đã khơi.
Xe loan gió cuốn lưng trời,
Tiên về động bích, tình rơi cõi Trần.
Ngửa trông năm thức mây vần,
Hồn chưa đến chốn non thần đã mê.

Lần trăng ngơ ngẩn ra về,
Đèn thông khêu cạn, giấc hòe chưa nên.
Nỗi nàng canh cánh nào quên,
Vẫn còn quanh quẩn người tiên khéo là?
Bướm kia vương lấy sầu hoa,
Đoạn tương tư ấy nghĩ mà buồn tênh!
Có khi gẩy khúc đàn tranh,
Nước non ngao ngán ra tình hoài nhân.
Cầu hoàng tay tựa nên vần,
Tương Như lòng ấy, Văn Quân lòng nào.
Có khi mượn chén rượu đào,
Tiệc mồi chưa cạn, ngọc dao đã đầy.
Hơi men chưa nhấp đã say,
Như xông mùi nhớ, như gây giọng tình.
Có khi ngồi suốt năm canh,
Mõ quyên điểm nguyệt, chuông kềnh nện sương.
Ỏi tai những tiếng đoạn trường,
Lửa tình dễ nguội, sông Tương khôn hàn.
Có đêm ngắm bóng trăng tàn,
Tiếng quyên hót sóm, trận nhàn bay khuya.
Ngổn ngang cảnh nọ tình kia,
Nỗi riêng, riêng biết, dãi dề với ai!
Vui xuân chung cảnh một trời,
Sầu xuân riêng nặng một người tương tư.
Lòng yêu tay tả nên thơ,
Mảnh tình phong với mảnh tờ đưa theo.
Ả Hằng ví nặng lòng yêu,
Rẽ mây mở lối tinh thiều cho nao!
Hỏi cho giáp mặt hoa đào,
Vườn xuân chẳng lẽ ngăn rào mãi ru!

Đồng song có gã họ Hà,
Ướm tình mới hỏi lân la gót đầu.
Cớ sao chuốc não mua sầu,
Bữa thường ngao ngán như màu nhớ ai?
Bấy nay vắng vẻ thư trai,
Vóc sương nghe đã kém vài bốn phân.
Nguồn cơn ngỏ với cố nhân,
Họa may sẽ giúp được phần nào chăng?
Điều đâu thực khéo như rằng,
Nói vào hợp ý, khôn bưng lòng người.
Song mà tình chẳng riêng ai,
Bệnh tương tư có trải mùi mới hay.
Người ngu đấng thánh xưa nay,
Tình chung chẳng ở vòng này hay sao?
Nói dù nghe cũng thế nào,
Lặng dù, nghe cũng nao nao chẳng đành.
Bệnh căn khôn lẽ dấu quanh,
Cầm tay mới kể đinh ninh mọi điều.
Nói bao nhiêu, tưởng bấy nhiêu,
Ghê cho sắc ngọc dễ xiêu lòng vàng.
Những là tiếc phấn say hương,
Nên vò lưới nhện mà vương tơ tằm.
Sầu dường bể, khắc như năm,
Xương mai chịu được mấy lăm mà gầy!
Nghìn xưa âu cũng thế này,
Gánh sầu san sẻ ai đầy ai vơi?
Lạ cho cái giống hương trời,
Biết năm biết thuở, biết đời nào quên.

Hà nghe nói hết căn nguyên,
Nghĩ xem chuyện ấy quả nhiên rằng kỳ.
Chẳng thần nữ, cũng tiên phi,
Duyên xưa còn có chút gì hay không.
Lá hồng ra mối chỉ hồng,
Nước bèo kia cũng tương phùng có phen.
Ngọc Liên nghe có Hóa Tiên,
Thánh Tông thuở trước qua miền ấy chơi.
Lầu chuông bỗng gặp một người,
Ngâm câu thần kệ, vịnh bài quốc âm.
Ngự khen tú khẩu cẩm tâm,
Mến riêng vì sắc, yêu thầm vì thơ.
Rước về rắp gạn tóc tơ,
Gót tiên bỗng thoắt bao giờ còn đâu?
Mười lăm năm nọ chưa lâu,
Còn di tích đó là lầu Vọng Tiên
Lạ tai nghe những chẳng tin,
Thử coi cho thấy nhỡn tiền mà ghê.
Nhận ra trong lá thơ đề,
Bút tiên chi để điểm mê lòng phàm.
Những là én bắc nhạn nam,
Cánh hoa mặt nước dễ làm sao đây?
Tuy rằng cách trở đông tây,
Dẫu xa, xa cũng có ngày gần nơi.
Gác xuân cách mấy dặm khơi,
Nhân duyên đành để gió trời thổi đưa.

Hà rằng: "Hương lửa duyên xưa,
"Có khi tình trước còn chờ hội sau.
"Đành rằng kỳ ngộ nan cầu,
"Biết đâu non thẳm doành sâu mà tìm.
"Biết đâu nhắn cá gửi chim,
"Vớt trăng dưới nước, mò kim trong doành.
"Biết đâu ả Tố, nàng Quỳnh,
"Cớ chi nhớ quẩn sầu quanh khéo là.
"Chuốc mua lấy nợ phong hoa,
"Mối tơ phó mặc trăng già phải nao!
"Xuân sang xuân đã già nào,
"Chờ sau mai nở thì đào chẳng lâu."
Vắt tay ngâãm nghĩ xưa sau,
Như ai cất hẳn gánh sầu thoảng không.
Nói cười tươi tắn thong dong,
Đổi lòng phong nguyệt ra lòng vân thiên.
Thôi mong khách, lại chờ tin,
Thư hồng ngày mỏi, chăn uyên đêm dài.
Bâng khuâng một mối viễn hoài,
Khi trong sân tuyết, khi ngoài trời tây.
Ngày thường ngắm cảnh am mây,
Người buồn xui cả cỏ cây cũng buồn.
Còn trời, còn nước, còn non,
Mây xanh nước biếc vẫn còn như xưa.
Hoa đào còn đó trơ trơ,
Mà người năm ngoái bây giờ là đâu?
Vù vù gió thổi rèm lau,
Càng như chất mối tơ sầu vào thêm.

Chạnh đâu nhớ chuyện bốc tiêm,
Tới đền Bạch Mã, giải niềm cầu duyên.
Khấn rồi ra góc tây hiên,
Nén hương tắt đỏ, ngọn đèn nhỏ to.
Bóng trăng vừa xế cành ngô,
Giấc hoè dìu dịu, chăn cù êm êm.
Thấy người cao mũ rộng xiêm,
Tay cầm thiết bảng, trang nghiêm khác vời.
Trước sân sang sảng dạy lời,
Rằng: "Mai sớm đợi ta ngoài sông Tô.
"Lọ là Oanh Yến hẹn hò,
"Cầu Đông sẵn lối, cầu Ô đó mà!"
Vội mừng chợt tỉnh giấc hoa,
Sao vừa nhàn nhạt, trời vừa eo eo.
Lòng yêu phải bước chân theo,
Xăm xăm ra đó vắng teo thấy gì.
Nước trong vắt, cỏ xanh rì,
Thạch Kiều thấy đó giai kỳ nào đâu?

Trông mong đã suốt giờ lâu,
Ôm cây mãi thế, ra màu cũng quê.
Chán chiều thơ thẩn ra về,
Xem tình dở tỉnh dở mê nực cười.
Bỗng may lại gặp một người,
Tay mang tranh vẽ, gót dời đường hoa.
Liền tay xin lĩnh xem qua,
Truyền thần một tượng Tố Nga rành rành.
Dịu dàng vẻ đạm màu thanh,
Như người gặp Quảng Văn Đình ngày xưa.
Càng nhìn nét bút càng ưa,
Chàng Vương dẫu mạc bao giờ cho nên.
Mua về treo chốn thư hiên,
Như ai đem ngọc giải phiền lại cho.

Mưa hoa khép cánh song hồ,
Sớm khuya với bức họa đồ làm đôi.
Mâm chung một, đũa thêm hai,
Thơ trao dưới nguyệt, rượu mời trước hoa.
Tưởng gần thôi lại nghĩ xa,
Có khi hình ảnh cũng là phát phu.
Êm trời vừa tiết trăng thu,
Ngàn sương rắc bạc, lá khô rụng vàng.
Chiều thu như gợi tấm thương,
Lòng người trông xuống sông Tương mơ hình.
Kề bên năn nỉ bày tình,
Nỗi nhà thuở trước, nỗi mình ngày xưa.
Từ phen giáp mặt đến giờ,
Những là ngày tưởng đêm mơ đã chồn.
Ấy ai điểm phấn tô son,
Để ai ruột héo, gan mòn vì ai?
Buồn đào nửa bước chẳng rời,
Nghìn vàng đổi được trận cười ấy chăng?
Rày xin bẻ khoá cung trăng,
Vén mây mở mặt chị Hằng, chút nao!
Chợt trông mấp máy miệng đào,
Mặt hoa hớn hở dường chào Chúa đông.

Cho hay tình cũng là chung,
Khách tiên chưa dễ qua vòng ái ân!
Một khi ra việc tràng văn,
Trở về đã thấy bát trân sẵn sàng.
So xem phong vị khác thường,
Mùi hoa sực nức, mùi hương ngạt ngào.
Bếp trời sẵn đấy hay sao?
Của đâu thấy lạ, lòng nào chẳng nghi?
Rạng mai cứ buổi ra đi,
Liệu chừng thoắt trở lại nhà thử coi.
Sẩy đâu thấy sự lạ đời:
Trong tranh sao có bóng người vào ra?
Nhơn nhơn mày liễu mặt hoa,
Này người khi trước, đâu mà đến đây?

Nàng đương trang điểm nào hay,
Cửa ngoài sẽ hé cánh mây bước vào.
Vội vàng đánh tiếng ra chào,
Bên mừng, bên lệ, xiết bao là tình!
Rằng: "Bấy lâu một chữ tình,
"Gặp đây xin tỏ tính danh cho tường."
Nàng rằng: "Bồ liễu phận thường,
"Vì mang má phấn, nên vương tơ điều.
"Vốn xưa thiếp khách thanh tiêu,
"Tiên thù là hiệu, Giáng Kiều là tên.
"Ba sinh đã nặng vì duyên,
"Đem thân liễu yếu, kết nguyền đào thơ.
"Nhân duyên đã định ngày xưa,
"Tơ trăng xe đến bây giờ mới thân.
"Cũng là nhờ đức tiên quân,
"Đóa hoa biết mặt chúa xuân từ rày."
Sinh rằng: "Trong bấy lâu nay,
"Nhắp sầu, gối muộn, có ngày nào ngơi!
"Đã rằng: Tác hợp duyên trời,
"Làm chi cho vẩn lòng người lắm nau?"
Nàng rằng: "Xin quyết gieo cầu,
"Tấm son thề với trên đầu xanh xanh.
"Dám đâu học thói yến oanh,
"Mặn tình trăng gió, nhạt tình lửa hương.
"Gieo thoi trước đã dở dang.
"Sau nên nát đá phai vàng như chơi.
"Mái Tây còn để tiếng đời,
"Treo gương kim cổ cho người soi chung.
"Lạ chi hoa với gió đông,
"Tiếc hương, vả cũng nể lòng chim xanh.
"Một mai mưa gió bất tình,
"Vóc tàn, nên để yến oanh hững hờ.
"Nghĩ trong thân phận yếu thơ,
"Làm chi để tiếng sờ sờ lại sau?"

Nói thôi rút chiếc trâm đầu,
Biến hình liền thấy đôi hầu theo ra.
Tưng bừng sắm sửa tiệc hoa,
Bình trầm đưa khói, chén hà đậm hương.
Giọng tình sánh với quỳnh tương,
Giả say sinh mớ toan đường lần khân.
Thưa rằng: "Túc trái tiền nhân,
"Không dưng dễ xuống cõi Trần làm chi.
"Song còn mấy bạn tương tri,
"Bấy lâu chưa có chút gì là đâu.
"Trước xin từ biệt cùng nhau,
"Chữ duyên này trở về sau còn dài."
Nghe lời nói cũng êm tai,
Chìu lòng chi nỡ ép nài mưa mây.
Trước sân mừng cuộc tỉnh say,
Tiếng vui đãi nguyệt, tiệc bày đối hoa.
Bóng mây bỗng kéo quanh nhà,
Thảo am thoát đã đổi ra lâu đài.
Tường quang sáng một góc trời,
Nhởn nhơ áo, mũ, xiêm, hài, biết bao!
Người yểu điệu, khách thanh tao,
Mỗi người một vẻ, ai nào kém ai.
Lả lơi bên nói bên cười,
Bên mừng cố hữu, bên mời tân lang.
Đong đưa khoe thắm đua vàng,
Vũ y thấp thoáng, Nghê thường thiết tha.

Yến tân chuốc chén năm ba,
Người còn vui tiệc, khách đà cáo say.
Kẻ ra nương bánh xe mây,
Người vào trong gấm vui vầy bạn loan.
Lả lơi cười với hoa nhan,
Trải chăn thúy vũ, buông màn phù dung.
Phòng tiên dìu dặt chén đồng,
Rèm tương giủ thấp, trướng hồng treo cao.
Ngẩn ngơ hé cửa động đào,
Mây tuông bể ái, mưa rào sông ân.
Mấy vàng đổi được khắc xuân,
Xưa nay tài tử, giai nhân lạ gì?
Cho hay thiên tải giai kỳ,
Trăng già xe đã phải thì đào non.
Cũng là môt mốt tơ son,
Năm trăm năm cũng vuông tròn từ đây.
Đàn cầm từ thuở bén dây,
Khi đằm thắm đã, bỏ ngày nhớ nhung!
Khi gió mát, lúc trăng trong,
Bầu tiên chuốc rượu, tơ đồng nối dây.
Khi tuyết xuống, lúc hương bay,
Câu thơ trên gác, bàn vây bên bình.
Tài hoa quốc sắc khuynh thành,
Cầm, kỳ, thi, tửu, đủ vành Trần duyên.
Ngươi tao nhã, khách thuyền quyên,
Phong, hoa, tuyết, nguyệt, là tiên trên đời.
Nhà lan sum họp ban mai,
Đã trong tần tảo, lại ngoài ty ca.

Dần dần năm đã kể ba,
Hạnh và độ thắm, Liễu và phần son.
Duyên ai tính đã vuông tròn,
Nào hay nợ trước chút còn dở dang.
Trần Sinh từ thuở gặp nàng,
Vui vầy mê mải nên càng quá xưa.
Một ngày say mấy canh thừa,
Khuyên can nàng mới ngỏ thưa ít nhiều.
Rằng: "Xin gửi một hai điều,
"Thân trăm năm nỡ bỏ liều thế ư!
"Thiếu gì những chuyện ngày xưa,
"Còn bia miệng đó trơ trơ chưa mòn!
"Ấy ai dỗi gót bên non,
"Bóng trăng Thái Thạch là hồn ai say!
"Ví còn lầm trước chưa hay,
"Thì đem gương ấy sau này mà soi."

Ngán thay khuyên nhủ đến lời,
Nưóc kia dội đá có mùi gì đâu.
Thôi ngày trọn, lại đêm thâu,
Cạn chung Lý Bạch, nghiêng bầu Lưu Linh.
Ma men quanh quẩn bên mình,
Cho đàn trễ phím, cho bình nhạt hương.
Mải mê say tỉnh tâm trường,
Liệu bài nàng lại tìm đường van lơn.
Trái tai vả lại ngứa gan,
Đang tay nỡ dập hoa tàn tả tơi.
Dây đồng đứt hẳn làm đôi,
Cánh bèo theo ngọn nước trôi cũng rầu!
Nàng càng tầm tả tuôn châu,
Ngán nhân tình khéo ra màu thắm phai.
Rằng: "Thôi, tôi đã quá lời,
"Xui lòng nghĩ lại một hai kẻo mà..."
Sinh đang vui chén la đà,
Vẩn vơ tính quỉ hồn ma biết gì.
Nói thôi, nói cũng chi chi,
Nghe ra tiếng nặng như chì, giọng say!
Nàng rằng: "Duyên nợ bấy nay,
"Thương ôi nước đổ bốc đầy được đâu.
"Tiếc cho nỗi vợ chồng Ngâu,
"Doành thu nên để bắc cầu mấy phen!
"Sá chi nữa, cái hoa hèn,
"Nghĩ làm chi nữa cái duyên cũ càng.
"Đã lòng rẻ thúy chia hương,
"Đành lòng rẫy ngọc, ruồng vàng thì vâng.
"Thôi thôi, thôi cũng cầm bằng,
"Tơ hồng phó trả bà trăng cho rồi."
Lạy rồi, đứng lại sân ngoài,
Bên bàn say tỉnh mặc người ngồi trơ.

Sinh còn đương cuộc nào ngờ,
Tỉnh dần dần lại, bây giờ biết sao?
Biết phương nào, biết chước nào,
Có chăng còn lúc chiêm bao họa là!
Non thần mấy dặm đường xa,
Khói mây man mác dễ mà hỏi, vay!
Cát vàng bụi bạc xa bay,
Mây trên mặt đất, non xây chân trời.
Ngắt chừng bể thẳm doành khơi,
Đường xa bao ngả tình dài bấy nhiêu.
Buồn trông quãng vắng đường queo,
Gió lay nhẹ lá, sương gieo nặng cành.
Buồn trông cửa bể mông mênh,
Con thuyền thấp thoáng cuối ghềnh ngổn ngang.
Buồn trông cuối phố hàng đường,
Cánh hồng man mác, hạt sương đầm đìa.
Buồn trông theo giải Tô Khê,
Chim kêu bụi rậm, Trâu về đồng không.
Cảnh buồn như giục tấm lòng,
Lại thêm vấn vít mấy vòng tơ vương.
Ấy ai phải vía chàng Trương,
Non tiên cách một bước đường nên xa.
Hay là lỗi sổ Hằng Nga,
Đêm đông vò võ bóng tà sao thưa.
Nghĩ tình nên những ngẩn ngơ,
Ai lên đường ấy, ai chờ đợi ai?
Dần dần trăng tối gió may,
Nghĩ sao cho xiết sự đời phôi pha!
Trêu ngươi chi bấy trăng già,
Xe dây mỏng mảnh ỡm ờ mà chơi.
Cho nên cách trở đôi nơi,
Hoa trôi cửa động, nước xuôi cõi Trần.
Nghĩ riêng, riêng những ăn năn,
Phấn Hồ, còn đó, tinh thần nào đâu?
Càng thêm ngao ngán trăm chiều,
Giấc nào nào nhắp, bữa nào nào ngon.
Xác ve ngày một héo mòn,
Xác gan con vượn, mơ hồn cái quyên.
Tả lòng tay thảo mười thiên,
Mấy câu mấy chữ, mấy nghìn câu rơi.

Hà Sinh phải buổi sáng chơi,
Xót tình khế hữu liêu bài giải khuyên:
"Biết đâu rằng quỉ rằng tiên,
"Một may một rủi thôi phiền não chi.
"Dù tiên duyên đã mãn kỳ,
"Chờ cho duyên hợp châu về mòn hơi!
"Hãy xin gắng gượng làm tươi,
"Gánh sầu trút cả cho người phải nao!
"Lỡ ra khi đến thế nào,
"Mà cho mắt tục trông vào sao nên."
Rằng: "Xưa trót đã nặng nguyền,
"Phải đem vàng đá mà đền mới xuôi.
"Cũng đành cho thế gian cười,
"Còn hơn cam phụ với người tri âm.
"Duyên xưa âu chẳng se lầm,
"Bao giờ kéo hết tơ tằm mà hay!
"Công đâu nghĩ mướn lo vay,
"Dẫu mòn bia đá khôn lay tấc lòng."
Xem chiều nói cũng như không,
Hà Sinh ra ý sượng sùng cáo lui.

Khách đà về chốn tây trai,
Một mình một bóng đứng ngồi sao yên.
Quyết tìm khắp nước non tiên,
Đem duyên giai lão đính nguyền lai sinh.
Giải là giủ sẵn bên mình,
Cũng liều trắng nợ, trần tình thử xem!
Gió hương đâu bỗng lai rèm,
Bóng hoa đâu đã trước thềm lả lơi.
Đương khi rằng một rằng hai,
Sịch hài nàng đã tới nơi bao giờ!
Mặt trông mặt, hãy ngẩn ngơ,
Nào hay đã tỉnh còn ngờ rằng mê.
May sao may khéo đi về,
Chậm chân chút nữa còn gì là ai!
Mắt nhìn chung cả con ngươi,
Bên lòng mừng tủi, bên lời hợp tan,
Sinh rằng: "Từ vắng phương nhan.
"Lòng theo trăng, bể, mây ngàn thiếu đâu.
"Quản bao bể rộng sông sâu,
"Đã toan quên cả cái cầu tư sinh.
"Dám đâu riêng phụ với tình,
"Dưới vàng có đất, trên xanh có trời.
"Kể chi những sự đã rồi,
"Sắt son ghi tạc một lời từ đây."
Thưa rằng: "Cầm đã bén dây,
"Có tri âm đó, cuốn dây sao đành.
"Cũng công hương lửa ba sinh,
"Nguồn ân chưa cạn, sóng tình còn xao."
Đinh ninh gắn bó tất giao,
Trước sau nối gót trướng đào song song.
Vườn xuân hoa đã quen ong,
Từng xa xôi lắm, lại nồng nàn thêm.
Mấy thu gối ấm chăn êm,
Cửa cài then nghĩa, phòng niêm khóa tình.

Trên đào vừa thấy tinh oanh,
Gốc giao sớm đã nối cành Quế Yên.
Chân Nhi rơi chút dấu tiên,
Một mai dành để dõi truyền thi thư.
Sinh càng chăm chút sớm trưa,
Cá mong rẽ sóng, rồng chờ tung mây.

Đường trời chưa mỏi cánh bay,
Thung dung nàng lại giãi bày một hai.
Rằng: "Coi cho thấu sự đời,
"Giam danh khóa lợi, những người thế gian.
"Trời thu mây hợp, lại tan,
"Ngày xuân hoa nở, hoa tàn mấy năm.
"Gẫm trong tám, chín mươi năm,
"Bóng câu cửa sổ, dễ cầm mãi ru!
"Thịt xương gửi đám Diêm Phù,
"Sinh sinh hóa hóa trong lò hồng quân.
"Đố ai vượt khỏi lòng Trần,
"Sông mê chìm nổi, thế nhân đã đầy.
"Anh hùng những mặt xưa nay,
"Trăm năm nát vớt cỏ cây cũng là.
"Dần dần tháng trọn ngày qua,
"Má hồng mấy chốc đã ra bạc đầu.
"Thôn hoang mấy nắm cổ khâu,
"Ấy nền Đồng Tước, hay lầu Nhạc Dương.
"Chưa đầy một cuộc tang thương,
"Non đồng cũng lở, núi vàng cũng nghiêng.
"Sao bằng ngày tháng cung tiên,
"Vui chung tám cõi, xuân riêng bốn mùa.
"Dọc ngang bốn bể, năm hồ,
"Khắp trong ba cõi chín châu mặc dầu.
"Ra vào kim khuyết quỳnh lâu,
"Treo tranh yên thủy, giắt bầu kiền khôn.
"Đi về tuyết điếm hoa thôn,
"Thông rền nhịp phách, suối tuôn ngón đàn.
"Một này trong thú thanh nhàn,
"Mấy trăm mươn cảnh nhân hoàn đọ sao!
"Khuyên chàng sớm nghĩ lấy nao,
"Gà lồng, hạc nội, bên nào là hơn?"

Mảnh riêng sinh những bàng hoàng,
Tuy say cõi tĩnh, chưa tan lòng phàm.
Trót xưa túi sách con gươm,
Ví ta Sào, Hứa, ai làm Y, Chu?
Thưa rằng: "Đã tiếng trượng phu,
"Sự đời vinh nhục chi cho bận lòng.
"Ví ham nghìn tứ, muôn chung,
"Con chim bay mãi cũng trong khuôn trời.
"Làm chi cho bạn tiên cười,
"Ai vui viên hạc, ai vui yên hà.
"Vẩn vơ trong đám phồn hoa,
"Ba mươi sáu động, ai là chủ nhân?"
Sinh nghe tỉnh chuyện tiền nhân,
Rửa dần bụi tục, tỏ dần lối mê.
Rằng: "Xưa Hoàng Đế, An Kỳ,
"Nào phương thoát hóa tu từ sao đây?"
Nàng rằng: "Thiên đạo nhiệm thay,
"Kiều, Tùng xưa cũng thế này chứ sao!
"Vả chàng dự bậc thanh tao,
"Mà xem trong sổ Tiên Tào có tên.
"Học sao cho hết chân truyền,
"Tu sao cho hết tinh huyền thì tu."

Tay trao một đạo tiên phù,
Một phương hỏa tảo, một lò kim đan.
Đường tu sẵn cách khảo bàn,
Rượu Sen thắm giọng, Trà Lan thơm lòng.
Dần theo gió liễu, trăng đồng,
Thân phàm như chấp cánh lông nhẹ nhàng.
Đương khi lốt trắng điểm vàng,
Tỉnh say Vương Mẫu, mơ màng Lão Quân.
Mây đưa năm sắc tường vân,
Hạc đâu đôi chiếc, trước sân đón người.
Dang tay cỡi hạc cả cười,
Nhủ Chân Nhi lại nối lời thề xưa:
"Còn kỳ dậy gió tuôn mưa,
"Mai sau gặp gỡ bấy giờ sẽ hay!"
Nói rồi thẳng rẽ đường mây,
Trông theo cánh hạc về tây tuyệt vời.
Bồng lai riêng một bầu trời,
Màn hoa, cầu đá, mấy nơi thiên thành.


Tác Giả

Hiện nay không biết tác giả của quyển "Bích Câu Kỳ Ngộ" là ai. Truyện này kể một sự tích ở nước ta, tức là việc một người học trò tên Trần Tú Uyên gặp một nàng tiên ở đất Bích Câu, bởi thế mới đặt tên truyện là "Bích Câu Kỳ Ngộ" (sự gặp gỡ lạ lùng ở Bích Câu). Bích Câu (ngòi biếc) trước thuộc làng Yên Trạch, tổng Yên Hòa, huyện Thọ Xương, tỉnh Hà Nội; nay là phố Cát Linh. Hiện còn đền thờ Tú Uyên, bên cạnh nhà Văn Miếu, là cái di tích của câu chuyện hoang đường này.



Tác Phẩm

I. Tú Uyên gặp Giáng Kiều, về ốm tương tư (1 - 272): Trần Tú Uyên, một người học trò nghèo, thường đi chơi những nơi thắng cảnh; một lần đến đất Bích Câu, thấy phong cảnh đẹp, bèn làm nhà ở đấy học. Một hôm, ông đi xem hội làm chay ở chùa Ngọc Hồ (tức chùa bà Ngô ở phố Sinh Từ, Hà Nội). Chiều đến, sắp về, chợt thấy bay đến trước mặt một bài thơ có ý ghẹo mình. Trông ra cửa Tam quan, thấy một người con gái rất đẹp. Ông bèn đi theo, đến Quảng Văn đình (nay là chợ cửa Nam Hà Nội) thì chợt người ấy biến mất. Từ đấy, Tú Uyên sinh ra ốm tương tư.

II. Tú Uyên kết duyên cùng Giáng Kiều (273 - 428): Sau Tú Uyên đến đền Bạch Mã (nay là phố Hàng Buồm) cầu mộng. Đêm, thần bảo ông sáng hôm sau ra đợi ở Cầu đông (nay ở phố hàng đường) thì gặp người con gái ấy. Hôm sau ra đợi mãi đến chiều, chỉ gặp một ông lão bán bức tranh một tố nữ giống hệt người đã gặp hôm trước. Ông bèn mua về, treo ở nhà, cứ đến bữa ăn, dọn hai cái bát, hai đôi đũa, mời người trong tranh ăn. Một hôm, ông đi học về, thấy có mâm cơm dọn sẵn, trong bụng sinh nghi. Hôm sau, ông rình ở một chỗ, thấy người trong tranh bước ra, ông vội chạy lại hỏi, thì người ấy nói tên mình là Giáng Kiều ở trên cung tiên xuống, xin kết duyên cùng ông. Giáng Kiều làm phép biến chỗ nhà của ông thành nguy nga tráng lệ.

III. Giáng Kiều giận Tú Uyên bỏ đi, sau lại trở về nhà (429 - 558): Tú Uyên lấy Giáng Kiều được ba năm, thường cứ rượu chè say sưa, nàng can ngăn, ông không nghe, lại còn đánh đập. Một lần, nàng quá giận, bỏ ông biến đi. đến lúc tỉnh, ông đi tìm đâu cũng không thấy, chỉ than khóc thương tiếc. Một hôm buồn quá, ông toan tự vận; chợt nàng Giáng Kiều hiện ra, ông bèn từ tạ, hai bên đoàn tụ như xưa.

IV. Tú Uyên và Giáng Kiều lên cõi tiên (559 - 648): Từ bấy giờ Tú Uyên đối đãi tử tế với Giáng Kiều. Sau sinh được một đứa con trai đặt tên là Chân Nhi. Nàng Giáng Kiều bèn khuyên ông nên lên cõi tiên và trao cho bùa tiên cùng thuốc tiên để ông tu luyện. Rồi một hôm sau khi dặn dò Chân Nhi ở lại cõi trần. hai vợ chồng cùng cỡi hạc bay lên cõi tiên.
Chưa phân loại
Uncategorized