Tác giả: Rabindranath Tagore
(1861 - 1941)
- Ẩn tiểu sử tác giả
Nhà thơ, nhà văn, triết gia, nhà giáo dục, nhạc sĩ, hoạ sĩ, đạo diễn Ấn Độ. Giải thưởng Nobel 1913. Sinh và mất tại Caleutta. Xuất thân trong một gia đình giàu có theo đạo Bà La Môn. Thích nghệ thuật, ưa cải cách xã hội. Năm 29 xuất bản tập thơ đầu tiên.
Tác phẩm chính: Gora (1910); Hoàng hôn của thế kỷ (1899); Khi tinh thần ta được giải phóng (1937); thi phẩm hay nhất là tập Thơ dâng (1910) gồm 103 bài.
Rabindranath Tagore (hay Rabindranath Thakur) (6 tháng 5 năm 1861 – 7 tháng 8 năm 1941) là nhà thơ Bengal, triết gia Bà La Môn và nhà dân tộc chủ nghĩa được trao giải Nobel văn chương năm 1913, trở thành người châu Á đầu tiên đoạt giải Nobel.
Tagore sinh tại Calcutta trong một gia đình trí thức truyền thống ở nhiều lĩnh vực. Cha ông là Devendranath Tagore, một nhà triết học và hoạt động xã hội nổi tiếng.
Mặc dù thơ chiếm ưu thế trong sự nghiệp của Tagore với hơn 1.000 bài, ông cũng để lại nhiều tiểu thuyết (14 quyển), luận văn, truyện ngắn (12 tập), kí, kịch (42 vở), tranh vẽ,... Không kém phần nổi tiếng trong số các tác phẩm của ông là hơn 2.000 bài hát, ngày nay được gọi là Rabindra Sangeet và được xem là kho tàng văn hoá Bengal ở cả Tây Bengal thuộc Ấn Độ lẫn Bangladesh.
Văn xuôi của Tagore đề cập đến các vấn đề xã hội, chính trị, giáo dục và nhãn quan của ông về tình huynh đệ phổ quát của con người. Thi ca của ông, xuất phát từ một tinh thần sâu sắc và sự hiến dâng, thường có nội dung ca ngợi thiên nhiên và cuộc sống. Đối với ông, sự phong phú muôn màu vẻ của cuộc sống là nguồn vui bất tận không mang yếu tố trần tục. Chủ đề tình yêu là mô-típ bàng bạc trong khắp các tác phẩm văn chương của ông.
Huy chương giải Nobel
Các bài hát của ông được chọn làm quốc ca của cả Ấn Độ và Bangladesh. Năm 1913, ông đoạt giải Nobel về văn chương cho bản dịch tiếng Anh của tác phẩm Gitanjali (Thơ dâng) của ông. Những tập thơ tiêu biểu của ông là Thơ dâng, Balaca, Người làm vườn, Mùa hái quả, Ngày sinh, Thơ ngắn...
Tagore cũng viết một số tác phẩm để phục vụ cho phong trào giải phóng Ấn Độ. Ông từ chối tước Hiệp sĩ (knight) của Hoàng gia Anh để phản đối cuộc thảm sát Jaliyaanwala Bagh (Amritsar) năm 1919 mà lính Anh đã nã súng vào nhóm thường dân tụ tập không vũ trang, giết hơn 500 người đàn ông, phụ nữ và trẻ em vô tội.
Quan điểm về giáo dục dẫn đưa ông thành lập trường của mình, gọi là Brahmacharyashram (brahmacaryāśrama, trung tâm giữ giới Phạm hạnh, brahmacarya), tại Santiniketan ở Tây Bengal năm 1901, nơi cha ông để lại mảnh đất cho ông làm tài sản. Sau năm 1921, trường này trở thành đại học Vishwa-Bharti và đặt dưới quyền quản lí của chính phủ Ấn Độ từ năm 1951.
Tagore rất nhạy cảm với các sự kiện thế giới xảy ra trong thời đại của mình và biểu hiện niềm đau cũng như nỗi thất vọng đối với chiến tranh. Ông luôn khao khát nền hoà bình cho thế giới.
Các chuyến đi vòng quanh thế giới (Tagore từng tới Việt Nam) đã mài dũa sự am hiểu các đặc trưng đa dạng của văn minh và dân tộc. Ông được xem là thí dụ điển hình cho sự kết hợp tinh tế của phương Đông và phương Tây trong văn chương.
Ngày nay Tagore vẫn là nguồn cảm hứng cho hơn 200 triệu người Bengal sống ở Tây Bengal của Ấn Độ và Bangladesh cũng như nhiều người trên khắp thế giới.
Tagore gọi Gandhi là "Mahatma" - linh hồn vĩ đại, và Gandhi (cũng như mọi người Ấn Độ) gọi Tagore là "Gurudev" - thánh sư.
Thơ ông đến với độc giả người Việt qua các bản dịch của Đỗ Khánh Hoan, Đào Xuân Quý và một số dịch giả khác.
Nguồn: http://vi.wikipedia.org/wiki/Rabindranath_Tagore
1. Đồ chơi
3. Những đoá hoa nhài đầu tiên
5. Thuyền giấy
2. Bản hợp đồng cuối cùng
4. Những lời chưa nói
Người làm vườn - The gardener
1. Bài số 5
5. Bài số 31
9. Bài số 52
2. Bài số 16
6. Bài số 34
10. Bài số 57
3. Bài số 28
7. Bài số 39
11. Bài số 73
4. Bài số 29
8. Bài số 49
Thơ dâng
1. Bài số 3
3. Bài số 29
5. Bài số 38
2. Bài số 28
4. Bài số 31
Trăng non
1. Hoa Chăm-pa
2. Mây và sóng
Hái quả - Fruit gathering
1. Bài số 25
2. Bài số 83
Những con chim bay lạc
1. Bài số 1
3. Bài số 277
5. Bài số 325
2. Bài số 88
4. Bài số 322
Nguồn : Thi Viện
- Ẩn tiểu sử tác giả
Nhà thơ, nhà văn, triết gia, nhà giáo dục, nhạc sĩ, hoạ sĩ, đạo diễn Ấn Độ. Giải thưởng Nobel 1913. Sinh và mất tại Caleutta. Xuất thân trong một gia đình giàu có theo đạo Bà La Môn. Thích nghệ thuật, ưa cải cách xã hội. Năm 29 xuất bản tập thơ đầu tiên.
Tác phẩm chính: Gora (1910); Hoàng hôn của thế kỷ (1899); Khi tinh thần ta được giải phóng (1937); thi phẩm hay nhất là tập Thơ dâng (1910) gồm 103 bài.
Rabindranath Tagore (hay Rabindranath Thakur) (6 tháng 5 năm 1861 – 7 tháng 8 năm 1941) là nhà thơ Bengal, triết gia Bà La Môn và nhà dân tộc chủ nghĩa được trao giải Nobel văn chương năm 1913, trở thành người châu Á đầu tiên đoạt giải Nobel.
Tagore sinh tại Calcutta trong một gia đình trí thức truyền thống ở nhiều lĩnh vực. Cha ông là Devendranath Tagore, một nhà triết học và hoạt động xã hội nổi tiếng.
Mặc dù thơ chiếm ưu thế trong sự nghiệp của Tagore với hơn 1.000 bài, ông cũng để lại nhiều tiểu thuyết (14 quyển), luận văn, truyện ngắn (12 tập), kí, kịch (42 vở), tranh vẽ,... Không kém phần nổi tiếng trong số các tác phẩm của ông là hơn 2.000 bài hát, ngày nay được gọi là Rabindra Sangeet và được xem là kho tàng văn hoá Bengal ở cả Tây Bengal thuộc Ấn Độ lẫn Bangladesh.
Văn xuôi của Tagore đề cập đến các vấn đề xã hội, chính trị, giáo dục và nhãn quan của ông về tình huynh đệ phổ quát của con người. Thi ca của ông, xuất phát từ một tinh thần sâu sắc và sự hiến dâng, thường có nội dung ca ngợi thiên nhiên và cuộc sống. Đối với ông, sự phong phú muôn màu vẻ của cuộc sống là nguồn vui bất tận không mang yếu tố trần tục. Chủ đề tình yêu là mô-típ bàng bạc trong khắp các tác phẩm văn chương của ông.
Huy chương giải Nobel
Các bài hát của ông được chọn làm quốc ca của cả Ấn Độ và Bangladesh. Năm 1913, ông đoạt giải Nobel về văn chương cho bản dịch tiếng Anh của tác phẩm Gitanjali (Thơ dâng) của ông. Những tập thơ tiêu biểu của ông là Thơ dâng, Balaca, Người làm vườn, Mùa hái quả, Ngày sinh, Thơ ngắn...
Tagore cũng viết một số tác phẩm để phục vụ cho phong trào giải phóng Ấn Độ. Ông từ chối tước Hiệp sĩ (knight) của Hoàng gia Anh để phản đối cuộc thảm sát Jaliyaanwala Bagh (Amritsar) năm 1919 mà lính Anh đã nã súng vào nhóm thường dân tụ tập không vũ trang, giết hơn 500 người đàn ông, phụ nữ và trẻ em vô tội.
Quan điểm về giáo dục dẫn đưa ông thành lập trường của mình, gọi là Brahmacharyashram (brahmacaryāśrama, trung tâm giữ giới Phạm hạnh, brahmacarya), tại Santiniketan ở Tây Bengal năm 1901, nơi cha ông để lại mảnh đất cho ông làm tài sản. Sau năm 1921, trường này trở thành đại học Vishwa-Bharti và đặt dưới quyền quản lí của chính phủ Ấn Độ từ năm 1951.
Tagore rất nhạy cảm với các sự kiện thế giới xảy ra trong thời đại của mình và biểu hiện niềm đau cũng như nỗi thất vọng đối với chiến tranh. Ông luôn khao khát nền hoà bình cho thế giới.
Các chuyến đi vòng quanh thế giới (Tagore từng tới Việt Nam) đã mài dũa sự am hiểu các đặc trưng đa dạng của văn minh và dân tộc. Ông được xem là thí dụ điển hình cho sự kết hợp tinh tế của phương Đông và phương Tây trong văn chương.
Ngày nay Tagore vẫn là nguồn cảm hứng cho hơn 200 triệu người Bengal sống ở Tây Bengal của Ấn Độ và Bangladesh cũng như nhiều người trên khắp thế giới.
Tagore gọi Gandhi là "Mahatma" - linh hồn vĩ đại, và Gandhi (cũng như mọi người Ấn Độ) gọi Tagore là "Gurudev" - thánh sư.
Thơ ông đến với độc giả người Việt qua các bản dịch của Đỗ Khánh Hoan, Đào Xuân Quý và một số dịch giả khác.
Nguồn: http://vi.wikipedia.org/wiki/Rabindranath_Tagore
1. Đồ chơi
3. Những đoá hoa nhài đầu tiên
5. Thuyền giấy
2. Bản hợp đồng cuối cùng
4. Những lời chưa nói
Người làm vườn - The gardener
1. Bài số 5
5. Bài số 31
9. Bài số 52
2. Bài số 16
6. Bài số 34
10. Bài số 57
3. Bài số 28
7. Bài số 39
11. Bài số 73
4. Bài số 29
8. Bài số 49
Thơ dâng
1. Bài số 3
3. Bài số 29
5. Bài số 38
2. Bài số 28
4. Bài số 31
Trăng non
1. Hoa Chăm-pa
2. Mây và sóng
Hái quả - Fruit gathering
1. Bài số 25
2. Bài số 83
Những con chim bay lạc
1. Bài số 1
3. Bài số 277
5. Bài số 325
2. Bài số 88
4. Bài số 322
Nguồn : Thi Viện