Tác giả: Thái Dịch Lý Đông A
Non Kỳ, nước Nhuế, mấy thu trường,
Đi lại tìm noi dấu cố hương.
Đỉnh dốc Bòng Bong nhiều ái ố,
Lưng đèo Cắc Cớ lằm tang thương.
Kinh luân vận mệnh là văn vũ,
Doanh dưỡng thiên dân ấy Thánh Vương,
Máy hoá muôn xưa nhà Hồng Lạc,
Thực hư ai biết khách cương thường?
Máy thiêng thủ quốc vẫn còn chân.
Hồng Lạc muôn xưa dấu đỉnh phân.
Mình ngự ngôi thần làm đế cực,
Tay vẫn chuôi Đẩu bả thiên luân
Nước non Lạc Nhuế cơ hiển thánh.
Con cháu Rồng Tiên buổi chấn xuân
Đại địa từ xưa không huyệt táng,
Đan thanh một điểm tại thông thần.
Rồng Tiên vốn có chủ trương nhà,
Lục Lục, Hồng Hồng chẳng phải xa,
Núi Tản, sông Thao guồng đất đạp,
Xuân Kỳ, Thu Nhuế trạm thời thoa,
Cơ thiêng núi Ngự tầng non Ngọc;
Trẫm triệu đùn xây cửa động hoa.
Nam Bắc không ngừng xoay Tý Ngọ,
Ngàn năm ta lại biết là ta.
Bác ngư lạc lối nhập đào nguyên,
Hốt hoảng trông vời một cảnh tiên.
Ấy phủ Động Đình ngày đản noãn,
Hay gò Bồng Đảo lúc chiêu duyên?
Ba sinh nợ cũ tình cố đế.
Một tấc oan hồn dạ Đỗ Quyên.
Nhắn có Long chương, phiền tý chút,
Lên xem nước Thủy của Huyền Thiên.
Cổ kim chơi xóa tựa do cờ,
Non nước còn ta đến tận giờ!
Buổi đóng Phong Châu, hôm Lãng Bạc,
khi quân Lam Thủy, lúc Hoa Lư.
Vận thần thụy ứng ngày chân mệnh
Khi chính thâm tàng chốn hóa cơ.
Nguyệt quật, thiên căn ai biết được?
Văn minh ta chẳng thiếu đồ thư.
Guồng máy lung linh độ chuyển vần.
Non xanh nước biếc có kinh luân.
Truyền danh đã hẳn là linh dị,
Ứng thụy rồi ra mới tác dân.
Hư thực anh hùng trông rõ thực,
Giả chân, hào kiệt biết rành chân.
Xưa nay bất trắc, cơ khôn nói,
Để hỏi đời ai bất thế nhân?
Hình hài thấp thoáng bóng tinh anh.
Dâu bể tìm ai trúc sử xanh?
Đụn thóc, cây tiền , kho giáo dưỡng
Gậy thần, sách ước, vốn kinh doanh,
Sồng Hằng, nước Hán đêu quy lại,
Đảo Úc tầng A cũng phục quanh,
Ruộng đất muôn xưa nhà Bách Việt,
Hồng Bàng còn để mối tân canh.
Chuông vàng đại báo dậy rèn đồng,
Dớp máu oan oan chửa nhạt hồng.
Ngán núi Kinh Thiên bao nắng hạ,
Thương dòng nước ngược mấy mưa đông,
Hai tư giáo hóa giềng cương kỷ;
Mưòi tám Hồng Bàng mối tổ tông,
Tháp cuốn Chà Bà, mây Ngũ Lĩnh,
Qua sông ta lại trở sang sông.
Bước chân cao thấp mãi không cằn,
Chỉ vị đan thanh chủt nhọc nhằn,
Trở lại hồng hoang khơi nguyệt quật;
Dò vào cửu cực nằm thiên căn.
Cương thường không ngoại guồng thân mệnh,
Giáo đường gồm trong trục vũ văn,
Giữ được Xuân Thu tròn vẹn mãi,
Còn nhờ tri kỷ, tấc băn khoăn.
Đất đỏ, trời xanh, giữa một ta,
Chung quanh vẫn của nước non nhà,
Theo đường tiên mở đem chiêng xuống;
Vạch lối rồng xây, lấy ngọc ra.
Tim óc xoay vần được tuế nguyệt,
Tay chân tạo tác nổi sơn hà,
Đấy ai suốt hết thần cơ nhỉ?
Tảng đá đầu ghềnh chốc nở hoa!
Vận hội ngàn năm dễ mấy lần,
Quét thanh lang sói mở canh tân,
Anh hùng dậy khắp vùng lau lách,
Tuấn nghệ ra đầy chốn giáp lân.
Đại cáo lại ban lời Bách Việt,
Quỳnh ca luôn tấu khúc DUY DÂN.
Trời Nam chung bọc Rồng Tiên cả.
Nhắc để lên đài sống Vạn Xuân.
Một lối vô danh há dễ bàn!
Đem nguồn cảm hứng nói non ngàn
Cơ trong vật lý, nên thần dụng,
Đạo ở nhân tình, chớ dị đoan.
Một nếp DUY DÂN cầm chính trị,
Trăm con Hồng Lạc hết gian nan.
Tiên Long Châu ấy nơi hùng thắng,
Để lại năm sau chốn ẩn nhàn.
4822 T.V.
X.Y. Thái Dịch Lý Đông A
4823 tuổi Việt ( 1944 )
( trích trong Huyết Hoa )
Đi lại tìm noi dấu cố hương.
Đỉnh dốc Bòng Bong nhiều ái ố,
Lưng đèo Cắc Cớ lằm tang thương.
Kinh luân vận mệnh là văn vũ,
Doanh dưỡng thiên dân ấy Thánh Vương,
Máy hoá muôn xưa nhà Hồng Lạc,
Thực hư ai biết khách cương thường?
Máy thiêng thủ quốc vẫn còn chân.
Hồng Lạc muôn xưa dấu đỉnh phân.
Mình ngự ngôi thần làm đế cực,
Tay vẫn chuôi Đẩu bả thiên luân
Nước non Lạc Nhuế cơ hiển thánh.
Con cháu Rồng Tiên buổi chấn xuân
Đại địa từ xưa không huyệt táng,
Đan thanh một điểm tại thông thần.
Rồng Tiên vốn có chủ trương nhà,
Lục Lục, Hồng Hồng chẳng phải xa,
Núi Tản, sông Thao guồng đất đạp,
Xuân Kỳ, Thu Nhuế trạm thời thoa,
Cơ thiêng núi Ngự tầng non Ngọc;
Trẫm triệu đùn xây cửa động hoa.
Nam Bắc không ngừng xoay Tý Ngọ,
Ngàn năm ta lại biết là ta.
Bác ngư lạc lối nhập đào nguyên,
Hốt hoảng trông vời một cảnh tiên.
Ấy phủ Động Đình ngày đản noãn,
Hay gò Bồng Đảo lúc chiêu duyên?
Ba sinh nợ cũ tình cố đế.
Một tấc oan hồn dạ Đỗ Quyên.
Nhắn có Long chương, phiền tý chút,
Lên xem nước Thủy của Huyền Thiên.
Cổ kim chơi xóa tựa do cờ,
Non nước còn ta đến tận giờ!
Buổi đóng Phong Châu, hôm Lãng Bạc,
khi quân Lam Thủy, lúc Hoa Lư.
Vận thần thụy ứng ngày chân mệnh
Khi chính thâm tàng chốn hóa cơ.
Nguyệt quật, thiên căn ai biết được?
Văn minh ta chẳng thiếu đồ thư.
Guồng máy lung linh độ chuyển vần.
Non xanh nước biếc có kinh luân.
Truyền danh đã hẳn là linh dị,
Ứng thụy rồi ra mới tác dân.
Hư thực anh hùng trông rõ thực,
Giả chân, hào kiệt biết rành chân.
Xưa nay bất trắc, cơ khôn nói,
Để hỏi đời ai bất thế nhân?
Hình hài thấp thoáng bóng tinh anh.
Dâu bể tìm ai trúc sử xanh?
Đụn thóc, cây tiền , kho giáo dưỡng
Gậy thần, sách ước, vốn kinh doanh,
Sồng Hằng, nước Hán đêu quy lại,
Đảo Úc tầng A cũng phục quanh,
Ruộng đất muôn xưa nhà Bách Việt,
Hồng Bàng còn để mối tân canh.
Chuông vàng đại báo dậy rèn đồng,
Dớp máu oan oan chửa nhạt hồng.
Ngán núi Kinh Thiên bao nắng hạ,
Thương dòng nước ngược mấy mưa đông,
Hai tư giáo hóa giềng cương kỷ;
Mưòi tám Hồng Bàng mối tổ tông,
Tháp cuốn Chà Bà, mây Ngũ Lĩnh,
Qua sông ta lại trở sang sông.
Bước chân cao thấp mãi không cằn,
Chỉ vị đan thanh chủt nhọc nhằn,
Trở lại hồng hoang khơi nguyệt quật;
Dò vào cửu cực nằm thiên căn.
Cương thường không ngoại guồng thân mệnh,
Giáo đường gồm trong trục vũ văn,
Giữ được Xuân Thu tròn vẹn mãi,
Còn nhờ tri kỷ, tấc băn khoăn.
Đất đỏ, trời xanh, giữa một ta,
Chung quanh vẫn của nước non nhà,
Theo đường tiên mở đem chiêng xuống;
Vạch lối rồng xây, lấy ngọc ra.
Tim óc xoay vần được tuế nguyệt,
Tay chân tạo tác nổi sơn hà,
Đấy ai suốt hết thần cơ nhỉ?
Tảng đá đầu ghềnh chốc nở hoa!
Vận hội ngàn năm dễ mấy lần,
Quét thanh lang sói mở canh tân,
Anh hùng dậy khắp vùng lau lách,
Tuấn nghệ ra đầy chốn giáp lân.
Đại cáo lại ban lời Bách Việt,
Quỳnh ca luôn tấu khúc DUY DÂN.
Trời Nam chung bọc Rồng Tiên cả.
Nhắc để lên đài sống Vạn Xuân.
Một lối vô danh há dễ bàn!
Đem nguồn cảm hứng nói non ngàn
Cơ trong vật lý, nên thần dụng,
Đạo ở nhân tình, chớ dị đoan.
Một nếp DUY DÂN cầm chính trị,
Trăm con Hồng Lạc hết gian nan.
Tiên Long Châu ấy nơi hùng thắng,
Để lại năm sau chốn ẩn nhàn.
4822 T.V.
X.Y. Thái Dịch Lý Đông A
4823 tuổi Việt ( 1944 )
( trích trong Huyết Hoa )